Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài

Ngày đăng: Thứ Sáu, 15/03/24 Người đăng: Ngan Nguyen

THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI

Thẩm quyền của hội đồng Trọng tài đóng vai trò quyết định trong việc giải quyết thấu đáo tranh chấp của các bên trong mỗi vụ kiện tại Trọng tài. Tuy nhiên, một số phán quyết của Hội đồng Trọng tài hiện nay bị  hủy bởi Tòa án bởi lý do Hội đồng Trọng tài thực hiện vượt ngoài thẩm quyền của mình.

Để hiểu rõ hơn quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, thực tiễn áp dụng trên thực tế, CNC hân hạnh giới thiệu với độc giả bài viết Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài được thực hiện bởi Luật sư Trần Phạm Hoàng Tùng và cộng sự.

Bài viết Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài nằm trong chuỗi bài viết giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài được nhiều doanh nghiệp lựa chọn khi xảy ra tranh chấp bởi những ưu điểm vượt trội như là thủ tục linh hoạt và nhanh chóng hơn, tính bảo mật cao hơn so với phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.

Không chỉ vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài mang tính cưỡng chế thi hành cao hơn so với phương thức thương lượng hay hòa giải. Khách hàng có thể tham khảo các bài viết về giải quyết Tranh chấp bằng Trọng tài thương mạiquy định thành lập Hội đồng trọng tài để nắm rõ hơn về (i) khái niệm Hội đồng trọng tài; (ii) phân biệt (02) loại Hội đồng trọng tài gồm Hội đồng trọng tài thành lập tại Trung tâm Trọng tài và Hội đồng trọng tài do các bên thành lập và (iii) cách thức thành lập Hội đồng trọng tài.

Trong phạm vi bài viết này, CNC sẽ cung cấp những thông tin cần thiết đến Khách hàng về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài

Khác với Tòa án, Hội đồng trọng tài không phải là tổ chức có tư cách pháp nhân[1]. Theo đó, Hội đồng trọng tài được thành lập theo từng vụ việc cụ thể và chỉ hình thành sau khi quá trình lựa chọn trọng tài được thực hiện. Trọng tài sẽ không mặc nhiên được áp dụng trong giải quyết tranh chấp nếu giữa các bên không có thoả thuận về việc sử dụng hình thức trọng tài hay có thể nói trọng tài mang tính hợp đồng[2]sẽ không có trọng tài nếu không có thoả thuận của các bên về việc sử dụng hình thức này để giải quyết tranh chấp phát sinh từ họ.

Nghĩa là thẩm quyền của Hội đồng trọng tài xuất phát từ ý chí của các bên trong vụ tranh chấp, được các bên lựa chọn giao phó giải quyết tranh chấp phát sinh. Điều này khác hoàn toàn so với thẩm quyền của Toà án vì thẩm quyền của Tòa án xuất phát từ luật pháp quốc gia, được nhà nước trao quyền thụ lý, xét xử. Ngoài thẩm quyền phát sinh do các bên trong tranh chấp trao cho thì sự điều chỉnh của pháp luật liên quan đến thỏa thuận trọng tài, pháp luật nơi tiến hành trọng tài (seat of arbitration) cũng là những yếu tố chi phối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Theo đó, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài dựa trên những căn cứ sau:

Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài xuất hiện từ 3 nguồn cơ bản

Thẩm quyền do các bên trao cho – căn cứ phát sinh thẩm quyền của Hội đồng trọng tài

Có thể thấy bản chất chủ yếu của phương thức trọng tài là Hội đồng trọng tài chỉ tồn tại khi có ý chí của các bên tranh chấp. Khác hẳn với Tòa án, Toà án được pháp luật một quốc gia trao cho thẩm quyền xét xử và nhân danh quyền lực nhà nước đưa ra phán quyết. Trong khi đó, vụ việc được Hội đồng trọng tài giải quyết chính là do các bên tranh chấp đưa ra giải quyết cho dù đó các bên lựa chọn Hội đồng trọng tài của Trọng tài quy chế hay là Trọng tài vụ việc (ad hoc).

Phạm vi thẩm quyền của Hội đồng trọng tài được quy định trong thỏa thuận trọng tài, theo đó Hội đồng trọng tài không được vượt quá thẩm quyền mà các bên đã quy định. Tuy nhiên nếu các bên có ý kiến khác nhau về thẩm quyền của trọng tài thì bên phản đối có thể đưa vấn đề lên Tòa án để Tòa án quyết định xem liệu rằng trọng tài có vượt quá thẩm quyền mà các bên trao cho hay không.[3]

Bên cạnh đó, ngoại trừ các quyền đã được quy định bởi pháp luật áp dụng, các quyền của Hội đồng trọng tài trong quá trình tố tụng cũng được xem là do các bên trao cho thông qua việc các bên thỏa thuận quy tắc tố tụng trọng tài.  

Thẩm quyền do pháp luật quy định

Luật trọng tài thương mại 2010, với tư cách là luật điều chỉnh về tố tụng trọng tài, đã có quy định và trao cho Hội đồng trọng tài một số quyền trong quá trình tố tụng ngay cả khi các bên không có thỏa thuận.

Một ví dụ dễ thấy về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài được pháp luật quy định chứ không phải do ý chí của các bên đó là vấn đề về xác định luật áp dụng. Theo đó, đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam.[4] Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; trường hợp không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.[5] Ngoài ra, Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.[6]

Chi tiết về các quyền của Hội đồng trọng tài được pháp luật trao cho được trình bày tại Mục 2 bên dưới.

Thẩm quyền do chính Hội đồng trọng tài quyết định

Theo quy định tại Điều 43(1) Luật Trọng tài thương mại 2010 thì trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài trước hết phải xem xét về thẩm quyền của mình để xác định rằng liệu Hội đồng trọng tài có thẩm quyền để giải quyết vụ việc đó hay không. Vấn đề này đặc biệt quan trọng trong trường hợp một bên có phản đối về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài với các lý do thường gặp như: thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thực hiện được, các bên chưa thực hiện đầy đủ các bước về giải quyết tranh chấp (trong điều khoản giải quyết tranh chấp đa tầng) trước khi vụ việc ra trọng tài,…

Đối với các vụ trọng tài trên thế giới, vấn đề về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thường được thể hiện thông qua phán quyết trọng tài từng phần (partial award) hoặc phán quyết trọng tài tạm thời (interim award) của Hội đồng trọng tài. Trường hợp ít phổ biến hơn đó là Hội đồng trọng tài sẽ không ban hành phán quyết về thẩm quyền của mình qua phán quyết trọng tài từng phần mà sẽ thể hiện trong phán quyết chung hay phán quyết trọng tài cuối cùng (final award). Phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài sẽ được ban hành tại giai đoạn kết thúc phân xử trọng tài. Phán quyết cuối cùng sẽ giải quyết tất cả các vấn đề còn bỏ ngỏ, về thủ tục tố tụng cũng như nội dung vụ tranh chấp và thường bao gồm cả quyết định về chi phí.[7]

Về góc độ Việt Nam, Luật trọng tài thương mại 2010 quy định rằng: Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài [8]. Có thể hiểu, tại Việt Nam chỉ tồn tại phán quyết trọng tài cuối cùng. Các dạng khác như phán quyết trọng tài từng phần, phán quyết trọng tài tạm thời hay các dạng phán quyết khác sẽ được gọi chung là quyết định theo định nghĩa tại Điều 3(9) Luật trọng tài thương mại 2010: “Quyết định trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp”.

Thẩm quyền chi tiết của Hội đồng trọng tài theo Luật trọng tài thương mại 2010

Thẩm quyền xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền giải quyết vụ việc của Hội đồng Trọng tài

Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không và xem xét thẩm quyền của mình trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp.[9]

Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài xem xét hiệu lực của Thỏa thuận Trọng tài

Thẩm quyền xác minh sự việc của Hội đồng trọng tài

Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài có quyền:

Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài xem xét vụ việc

Thẩm quyền trên được Hội đồng trọng tài thực hiện bằng các hình thức thích hợp với sự có mặt của các bên hoặc sau khi đã thông báo cho các bên biết. [10]

Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về việc thu thập chứng cứ

Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài trong việc thu thập chứng cứ

Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về việc triệu tập người làm chứng

Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về việc triệu tập người làm chứng

Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các bên có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.

Dựa theo yêu cầu của các bên, Hội đồng trọng tài có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau:

Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Thẩm quyền tiến hành tố tụng trọng tài khác mà các bên không có thỏa thuận hay Quy tắc của Trung tâm trọng tài không quy định

Trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không có quy định khác, thời gian và địa điểm mở phiên họp do Hội đồng trọng tài quyết định.[11]

Thẩm quyền giải quyết các vấn đề khác liên quan đến vụ tranh chấp được các bên yêu cầu

Bên cạnh đó, Hội đồng trọng tài còn có thẩm quyền giải quyết các vấn đề khác liên quan đến vụ tranh chấp được các bên yêu cầu như thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết tranh chấp[12]; căn cứ vào hồ sơ để tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp mà không cần sự có mặt của các bên.[13]

Phân biệt thẩm quyền của Trung tâm trọng tài và Hội đồng trọng tài

Trên thực tế, vẫn có những trường hợp đương sự nhầm lẫn giữa chức năng của Hội đồng trọng tài và Trung tâm trọng tài, trong khi đây là 2 thực thể khác nhau và có những chức năng riêng biệt.

Trong khi chức năng chính của Hội đồng trọng tài là trực tiếp giải quyết tranh chấp giữa các Bên, thì Trung tâm trọng tài (Arbitration center) có chức năng tổ chức, điều phối hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quy chế và hỗ trợ Trọng tài viên về các mặt hành chính, văn phòng và các trợ giúp khác trong quá trình tố tụng trọng tài.[14] Bên cạnh đó, để bắt đầu tố tụng trọng tài thì Trung tâm trọng tại sẽ là người tiếp nhận và kiểm tra đơn khởi kiện của nguyên đơn đã đầy đủ những nội dung được đề cập tại Điều 30 Luật Trọng tài thương mại 2010 hay chưa, bao gồm:

Kèm theo đơn khởi kiện, nguyên đơn phải có thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu có liên quan.

Có thể thấy chức năng chính của Trung tâm Trọng tài là quản lý, giám sát  quá trình tố tụng Trọng tài, cung cấp các hỗ trợ về hành chính, văn phòng và các dịch vụ khác cho việc giải quyết tranh chấp, chứ không phải là xem xét nội dung tranh chấp như Hội đồng trọng tài.

Kết luận

Việc xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài đóng vai trò tiên quyết trong quá trình giải quyết tranh chấp. Quyền giám sát hoạt động tố tụng của Hội đồng trọng tài trước hết thuộc về các bên tranh chấp trong quá trình xảy ra tranh chấp, theo đó các bên có thể khiếu nại với Hội đồng trọng tài nếu phát hiện Hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền.  Trong trường hợp không đồng ý với quyết định (về giải quyết khiếu nại) của Hội đồng trọng tài quy định, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài.

Do đó, việc các Bên nắm rõ các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về đảm bảo lợi ích cho chính mình trong quá trình tố tụng trọng tài là hết sức cần thiết.

—————————————————-

[1] Nguyễn Mạnh Dũng, ‘Thẩm quyền giữa Trung tâm trọng tài và Hội đồng trọng tài trong quá trình tố tụng được phân định như thế nào?’ <http://dzungsrt.com/wp-content/uploads/2016/01/07192014-The-Jurisdiction-between-the-Arbitration-Centre-and-the-Arbitral-Tribunal> truy cập ngày 28/9/2023

[2] Xem: Dương Anh Sơn (chủ biên), Giáo trình Luật Hợp đồng thương mại quốc tế, 2018, tr. 194

[3] Tlđd

[4] Điều 14(1) Luật Trọng tài thương mại 2010

[5] Điều 14(2) Luật Trọng tài thương mại 2010

[6] Điều 14(3) Luật Trọng tài thương mại 2010

[7]  Blackaby, Partasides, et al., Redfern and Hunter on International Arbitration (7th ed., OUP, 2023), p. 9.19.

[8] Điều 3(10) Luật Trọng tài thương mại 2010

[9] Điều 43(1) Luật Trọng tài thương mại 2010

[10] Điều 45 Luật Trọng tài thương mại 2010

[11] Điều 54 Luật Trọng tài thương mại 2010

[12] Khoản 1 Điều 51 Luật Trọng tài thương mại 2010

[13] Khoản 3 Điều 56 Luật Trọng tài thương mại 2010

[14] Điều 23 Luật Trọng tài thương mại 2010

Tải bản PDF của bài viết tại đây: [pdf]Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài

—————————————————-

Bất kỳ ý kiến đóng góp, hiệu chỉnh nào của độc giả đối với các nội dung trong bản tin này hoặc cần CNC hỗ trợ thêm, vui lòng gửi về:

 

liên hệ
Công ty Luật TNHH CNC Việt Nam

    CNC© | A Boutique Property Law Firm

    The Sun Avenue, 28 Mai Chí Thọ, Phường An Phú, Quận 2,

    Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam

    T: (+84-28) 6276 9900 | H/L: (+84) 916 545 618

    Miễn trừ:

    Bản tin này được chuẩn bị hoặc được sử dụng vì mục đích giới thiệu hoặc cập nhật cho khách hàng những thông tin về những vấn đề và/hoặc sự phát triển các quan điểm pháp lý tại Việt Nam. Các thông tin được trình bày tại bản tin này không tạo thành ý kiến tư vấn thuộc bất kỳ loại nào và có thể được thay đổi mà không cần phải thông báo trước.

    2 thoughts on “Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài

    1. Pingback: 09 điểm mới của Quy tắc SIAC 2025 – CNC | Công ty Luật TNHH CNC Việt Nam

    2. Pingback: 09 New points of SIAC Rules 2025 – CNC | Công ty Luật TNHH CNC Việt Nam

    Để lại một bình luận

    This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.