6 sai lầm “chết người” cần tránh về hoàn trả tiền bảo hành công trình

Ngày đăng: Thứ Hai, 22/09/25 Người đăng: Admin

6 sai lầm “chết người” cần tránh về hoàn trả tiền bảo hành công trình

Hoàn trả tiền bảo hành công trình là một nội dung then chốt trong hợp đồng xây dựng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và dòng tiền của Nhà thầu và Chủ Đầu tư. Việc xem xét hoàn trả tiền bảo hành công trình không chỉ dừng ở khía cạnh tuân thủ hợp đồng mà còn gắn liền với quản lý vốn lưu động, kiểm soát rủi ro tài chính và nghĩa vụ pháp lý của các bên.

Tuy nhiên, thực tế vẫn có nhiều Chủ Đầu tư, Nhà thầu và cả Nhà thầu phụ mắc phải những sai lầm “chết người” khi soạn thảo và thực hiện quy định hoàn trả tiền bảo hành công trình. Những sai lầm này khiến cho việc hoàn trả khoản tiền bảo hành công trình trở nên khó khăn, phức tạp. Nhiều tranh chấp về việc hoàn trả khoản tiền bảo hành công trình cũng trực tiếp xuất phát từ đây.

Rút kinh nghiệm của hơn 15 tranh chấp về hoàn trả tiền bảo hành công trình, CNC chỉ ra 6 sai lầm “chết người” phổ biến nhất giúp Các Bên nhận diện và phòng tránh. 6 sai lầm về việc hoàn trả tiền bảo hành công trình việc chuẩn bị Hợp đồng, đọc hiểu sai nội dung, ý nghĩa của tiền bảo hành công trình tới việc thực thi và giải quyết các tranh chấp bất đồng phát sinh. Cụ thể:

Sai lầm thứ nhất, hiểu sai bản chất của khoản tiền bảo hành công trình

Sai lầm thứ hai, xác định giá trị bảo hành công trình quá cao.

Sai lầm thứ ba, không có mốc thời gian cụ thể để hoàn trả tiền bảo hành công trình

Sai lầm thứ tư, không sử dụng bảo lãnh bảo hành như phương án thay thế

Sai lầm thứ năm, lưu trữ hồ sơ không kỹ lưỡng

Sai lầm thứ sáu, chấp nhận điều khoản thanh toan giáp lưng “Pay – when – paid”.

6 sai lầm “chết người” cần tránh về hoàn trả tiền bảo hành công trình
Dưới đây, CNC sẽ phân tích chi tiết từng sai lầm, cụ thể hóa những rủi ro mà Các Bên có thể gặp phải trên thực tế từ đó có những kiến nghị phù hợp:

Xem thêm: CNC Newsletter_6 sai lầm “chết người” cần tránh về hoàn trả tiền bảo hành công trình

Sai lầm thứ nhất, hiểu sai về bản chất của khoản tiền bảo hành công trình

Pháp luật Việt Nam nói chung, Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn thi hành nói riêng không có định nghĩa rõ ràng thế nào là “tiền bảo hành công trình”. Do vậy, cụm từ “tiền bảo hành công trình” thường chỉ được hiểu (i) như là một khoản tiền cụ thể; và (ii) mục đích của khoản tiền bảo hành công trình là dùng để bảo hành, sửa chữa những sai sót, hư hỏng phát sinh.

Khi đó, với ý nghĩa là một khoản tiền dùng để chi trả các chi phí cho việc “sửa chữa các sai sót, hư hỏng”, nhiều Nhà thầu cũng đồng thời cho rằng “trách nhiệm bảo hành của Nhà thầu chỉ giới hạn ở số tiền cụ thể mà Chủ Đầu tư đang giữ. Nếu số tiền bảo hành đó không đủ để sửa chữa những sai sót, khiếm khuyết thì Chủ Đầu tư phải tự chịu như một rủi ro trong kinh doanh.”

Để củng cố cho luận điểm của mình thì một số Nhà thầu lập luận: “Chủ Đầu tư được hưởng lợi từ việc sử dụng, khai thác công trình thì Chủ Đầu tư phải sử dụng những các nguồn thu khác nhau từ việc sử dụng đó để sửa chữa các sai sót, khiếm khuyết. Nói cách khác, nghĩa vụ của Nhà thầu đối với việc sửa chữa sai sót, khiếm khuyết chính là giới hạn ở khoản tiền bảo hành.

Trước những lập luận đó, nhiều Chủ đầu tư bày tỏ thái độ không đồng tình và cho rằng khoản tiền bảo hành không phản ánh đầy đủ nghĩa vụ bảo hành, nhưng lại không tìm được cơ sở pháp lý phù hợp hoặc không thiếu lập được luận điểm đủ mạnh để bảo vệ ý kiến này.

Chu Dau tu vs Nha thau_Tien bao hanh cong trinh

Ở hướng ngược lại, vì số tiền bảo hành công trình được xác định dựa trên tỷ lệ nhất định so với giá trị hợp đồng xây dựng. Khi giá trị hợp đồng xây dựng thay đổi do phát sinh công việc, điều chỉnh giá hợp đồng thì Chủ Đầu tư thường yêu cầu Nhà thầu điều chỉnh giá trị của khoản tiền bảo hành tương ứng với sự thay đổi đó của giá trị hợp đồng xây dựng.

Sai lầm thứ nhất, hiểu sai về bản chất của khoản tiền bảo hành công trình

Cả hai quan điểm trái ngược nêu trên đều dẫn đến chung một hệ quả: Chủ đầu tư và Nhà thầu không hài lòng, và tranh chấp là điều khó tránh khỏi. Đây là hệ quả mà có lẽ cả Chủ đầu tư lẫn Nhà thầu đều không lường trước và cũng không mong muốn khi đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng xây dựng.

Trong khi đó, chi phí để theo đuổi một vụ kiện là quá lớn, nó không chỉ nằm ở khoản tiền mà các bên phải trả cho luật sư, trọng tài, tòa án hay chuyên gia, mà còn ở thời gian bị tiêu tốn và hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp khi phải tham gia vào những tranh chấp như vậy.

Sai lầm thứ hai, xác định giá trị bảo hành công trình quá cao

Với ý nghĩa là “khoản tiền để đảm bảo cho việc bảo hành”, do vậy để đảm bảo quyền lợi thì không ít trường hợp Chủ Đầu tư yêu cầu tỷ lệ giữ lại để bảo hành công trình cao, chẳng hạn 10 – 15%, thậm chí có một số trường hợp rất đặc thù, có Chủ Đầu tư yêu cầu tỷ lệ giữ lại lên tới 20%.

Sai lầm thứ hai, xác định giá trị bảo hành công trình quá cao

Những tưởng, với ý định rõ ràng như vậy thì quyền và lợi ích hợp pháp của Chủ Đầu tư sẽ được đảm bảo. Tuy nhiên, hệ quả của việc xác định giá trị bảo hành công trình quá cao không hẳn là giải pháp hữu hiệu.

Trước hết, về khía cạnh kinh tế và tài chính thì tiền bảo hành được xem là một khoản lợi nhuận. Do vậy, giải phóng khoản tiền bảo hành công trình không chỉ đảm bảo lợi nhuận dự kiến của Nhà thầu mà còn giúp Nhà thầu có khoản vốn lưu động đáng kể.

Điều đó đồng nghĩa, trong bối cảnh biên độ lợi nhuận trung bình của ngành xây dựng hiện nay không thực sự cao (thông thường giao động từ khoảng 6% – 10%). Việc chấp nhận một tỷ lệ khoản tiền bảo hành công trình quá cao cũng đồng nghĩa Nhà thầu mất đi một lượng tiền mặt lớn trong một thời gian dài tương ứng với thời hạn bảo hành công trình.

Nói cách khác, ý nghĩa và mục đích của khoản tiền bảo hành công trình mà Nhà thầu kỳ vọng không được đảm bảo. Thậm chí, rủi ro không thu hồi được khoản tiền bảo hành công trình khi Chủ Đầu tư hoặc Tổng thầu gặp rủi ro tài chính là hiện hữu.

Đó chính là sai lầm “chết người” mà nhiều Nhà thầu (bao gồm cả Nhà thầu phụ) mắc phải khi chấp thuận mức giá trị bảo hành công trình cao. Thậm chí, trong nhiều trường hợp khi Nhà thầu đã tiến hành các biện pháp tố tụng cần thiết nhằm thu hồi khoản tiền bảo hành công trình thì khả năng thi hành án cũng hoàn toàn mơ hồ khi mà Chủ Đầu tư, Nhà thầu chính đã không còn khả năng tài chính để hoàn trả khoản tiền bảo hành này.

Tất nhiên, việc quy định giá trị bảo hành cao không chỉ tiềm ẩn rủi ro cho Nhà thầu mà còn có thể đặt Chủ đầu tư vào thế bất lợi về tài chính. Cụ thể, khi yêu cầu tỷ lệ giữ bảo hành cao hơn mức thông lệ, Chủ đầu tư buộc Nhà thầu phải tính thêm chi phí tài chính vào giá chào thầu. Kết quả là, Chủ đầu tư phải trả nhiều tiền hơn cho cùng một khối lượng công việc. Như vậy, dù mục đích ban đầu là để bảo vệ lợi ích trước các nguy cơ sai sót hay khiếm khuyết của công trình, trên thực tế, Chủ đầu tư lại phải gánh chịu bất lợi về tài chính.

Ngoài ra, khi Chủ Đầu tư đồng ý giải phóng khoản tiền bảo hành công trình khi Nhà thầu đệ trình một bảo lãnh cho khoản tiền giữ lại thì rủi ro của Chủ Đầu tư chính là cầm trong tay một “tờ giấy đảm bảo” và việc thực thi nghĩa vụ của bảo lãnh cho khoản tiền giữ lại đó phụ thuộc vào người đứng ra đảm bảo (trong hầu hết các trường hợp đó là ngân hàng hoặc các định chế tài chính).

Do đó, khi tiến hành đàm phán và rà soát hợp đồng, Nhà thầu nên xem xét cẩn trọng về tỷ lệ giữ tiền bảo hành công trình. Hãy xem việc giải phóng khoản tiền bảo hành công trình là một điều khoản thương mại cần được đàm phán và có thể đàm phán thay vì “nhắm mắt đưa tay” để tránh mất trắng toàn bộ 10-20% giá trị hợp đồng.

Sai lầm thứ ba: Không có mốc thời gian cụ thể để hoàn trả tiền bảo hành công trình

Khác với tỷ lệ tạm giữ tiền bảo hành công trình thường được quy định rõ ràng (theo một tỷ lệ hay một giá trị cụ thể), việc xác định thời điểm hoàn trả khoản tiền bảo hành công trình thường không rõ ràng và rất mơ hồ. Đây là một sai lầm nghiêm trọng và là một bẫy pháp lý phổ biến mà đội ngũ Luật sư CNC thường gặp khi hỗ trợ Nhà thầu.

Điển hình, nhiều Hợp đồng Xây dựng thường chỉ quy định “Tiền bảo hành công trình sẽ được xác định dựa trên giá trị quyết toán hợp đồng”, hoặc “Tiền bảo hành công trình sẽ chỉ được hoàn trả cho Nhà thầu sau khi Nhà thầu hoàn thành toàn bộ công việc Nhà thầu đã hoàn thành việc sửa chữa khiếm khuyết, sai sót”.

Các điều khoản như trên hoàn toàn mơ hồ bởi lẽ Nhà thầu (i) không thể tự quyết toán giá trị hợp đồng; (ii) không thể tự mình xác định thời điểm hoàn thành; hoặc (iii) không thể tự quyết định liệu một khiếm khuyết hay sai sót nào đó được xem là nhỏ và không ảnh hưởng đến lợi ích của Chủ Đầu tư.

Trong các buổi thương thảo làm rõ hợp đồng, không ít Chủ đầu tư có xu hướng viện dẫn Khoản 14.9 của Hợp đồng FIDIC 1999 để lập luận rằng “ngay cả Hợp đồng FIDIC cũng không quy định một mốc thời gian cụ thể mà chỉ nêu chung chung là “ngay sau ngày hết hạn cuối cùng của Thời hạn thông báo sai sót hư hỏng, việc cân đối tồn đọng của số tiền giữ lại sẽ được Tư vấn chứng nhận để thanh toán cho Nhà thầu”[1]. Lập luận này thường khiến nhiều Nhà thầu dễ dàng đồng tình và chấp nhận hướng quy định về thời điểm hoàn trả tiền bảo hành của Chủ đầu tư là hợp lý. Tuy nhiên, cách giải thích này lại chưa thực sự chính xác ở nhiều khía cạnh trên thực tế, chẳng hạn:

Khi Các Bên đã lựa chọn Hợp đồng FIDIC, cơ chế, cách vận hành và mức độ chi tiết của các điều khoản đều được xây dựng trên nguyên tắc phân bổ rủi ro cho Bên có khả năng quản lý rủi ro đó tốt nhất. Nói cách khác, Hợp đồng FIDIC mang đến một bức tranh hoàn toàn khác so với các hợp đồng truyền thống mà Các Bên thường đàm phán. Điều này có nghĩa là, mặc dù điều khoản về giải phóng khoản tiền bảo hành được quy định chung chung, nhưng cách thức vận hành trong Hợp đồng FIDIC lại rõ ràng và bảo đảm tính thực thi cho Các Bên và được vận hành trong một thể thống nhất của FIDIC. Do đó, sẽ trở nên khập khiễng khi Chủ đầu tư viện dẫn các quy định của Hợp đồng FIDIC để biện minh cho việc từ chối tham gia hay làm rõ một Hợp đồng có điều khoản chi tiết và minh bạch hơn (mà không phải là sử dụng Hợp đồng FIDIC).

Một ví dụ dễ thấy nhất đối với Hợp đồng FIDIC là khoản tiền bảo hành công trình sẽ ngay lập tức phải được hoàn trả 50% một khi Nhà thầu hoàn thành công trình. Trong trường hợp Chủ Đầu tư nhận bàn giao từng phần, từng hạng mục công trình thì tỷ lệ giải phóng khoản tiền bảo lưu là 40% phần giá trị của phần công trình đó[2].

Như vậy, tại thời điểm hoàn thành công trình thì tỷ lệ và giá trị của khoản tiền bảo hành công trình theo quy định của Hợp đồng FIDIC chỉ là ½ (50%) so với tổng giá trị của khoản tiền bảo hành được quy định tại Điều kiện cụ thể của Hợp đồng mà Chủ đầu tư được quyền tạm giữ trong thời gian bảo hành.

Tương tự, mặc dù Hợp đồng FIDIC có thể chỉ quy định một cách khái quát về việc giải phóng khoản tiền bảo hành công trình (1/2 của khoản tiền bảo hành công trình còn lại), điều đó không có nghĩa là các quy định trong Hợp đồng thiếu thống nhất hay thiếu rõ ràng. Thay vì ấn định một mốc thời gian cụ thể, FIDIC lựa chọn cách xác định các sự kiện hoặc tình huống thực tế và chắc chắn sẽ xảy ra (thời điểm Tư vấn phát hành Chứng chỉ nghiệm thu hoặc Chứng chỉ nghiệm thu được xem là đã được phát hành). Nhờ đó, việc áp dụng và hiểu đúng quy định về giải phóng khoản tiền bảo hành công trình trở nên rõ ràng, hạn chế tối đa khả năng phát sinh tranh chấp.

Không chỉ dừng lại ở đó, Hợp đồng FIDIC xác định giá trị khoản tiền bảo hành công trình dựa trên Giá trị Hợp đồng đã được chấp thuận. Điều này đồng nghĩa với việc giá trị khoản tiền bảo hành công trình được xác định một cách rõ ràng, không thay đổi hay biến động. Khi Chủ đầu tư đã tạm giữ đủ số tiền bảo hành theo quy định của Hợp đồng, Chủ đầu tư sẽ không tiếp tục khấu trừ thêm khoản bảo hành, bất kể trong quá trình thực hiện Hợp đồng có phát sinh hay điều chỉnh làm thay đổi Giá Hợp đồng.

Trong khi đó, các hợp đồng được soạn thảo và đàm phán bởi Các Bên đang lại có khả năng tồn tại nhiều hạn chế, bao gồm việc sử dụng thuật ngữ thiếu nhất quán, không rõ ràng, không tuân thủ đúng trình tự và thủ tục thực hiện Công trình, thậm chí còn chứa đựng nhiều điều khoản chồng chéo, đối kháng và mâu thuẫn lẫn nhau.

Khi hợp đồng có những quy định không rõ ràng như vậy thì đó chính là “vùng xám” để bên giữ tiền (thông thường là Chủ Đầu tư hay Nhà thầu chính) dễ dàng hơn trong việc diễn giải các điều kiện, quy định trong hợp đồng theo hướng có lợi cho họ thay vì xác định một cách khách quan ý chí của các bên khi xác lập hợp đồng.

Do vậy, việc cần thiết đối với Nhà thầu chính là (i) xác định rõ thời điểm bắt đầu của thời gian bảo hành công trình; (ii) xác định rõ thời hạn kết thúc thời hạn bảo hành công trình; (iii) xác định rõ thời điểm đến hạn để hoàn trả khoản tiền bảo hành công trình; và (iv) sử dụng bảo lãnh hoàn trả khoản tiền bảo hành công trình (như đề cập dưới đây) chính là những cách tốt nhất để hạn chế các tranh chấp và sớm giải phóng khoản tiền bảo hành công trình cho Nhà thầu.

Sai lầm thứ ba: Không có mốc thời gian cụ thể để hoàn trả tiền bảo hành công trình

Khi đã xác định được rõ ràng các mốc quan trọng nêu trên, Nhà thầu sẽ chủ động hơn trong việc quản lý hợp đồng, thực hiện quyền khiếu nại khi cần thiết. Cố vấn nội bộ hoặc Luật sư bên ngoài như CNC sẽ có nhiều cơ hội hơn để bảo vệ các lợi ích của Nhà thầu khi tranh chấp phát sinh.

Sai lầm thứ tư: Không sử dụng cơ chế bảo lãnh bảo hành gây lãng phí dòng tiền

Như đã đề cập ở “sai lầm thứ hai”, việc bị giữ lại một khoản tiền mặt lớn (thường dao động từ 3–5%, thậm chí có trường hợp lên tới 10% giá trị hợp đồng) trong suốt 24 đến 36 tháng là một gánh nặng tài chính đáng kể đối với bất kỳ Nhà thầu nào. Đặc biệt, trong ngữ cảnh mỗi Nhà thầu hàng năm đảm nhận nhiều dự án cùng lúc, tổng giá trị của khoản tiền giữ lại để bảo hành chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp.

Sai lầm thứ tư: Không sử dụng cơ chế bảo lãnh bảo hành gây lãng phí dòng tiền

Việc giữ khoản tiền bảo hành này khiến một phần vốn lưu động bị “đóng băng”, làm mất đi cơ hội đầu tư, mở rộng sản xuất, chi trả chi phí vận hành hoặc tận dụng cơ hội nhận thêm dự án mới. Thế nhưng, nhiều Nhà thầu chưa nhận thức đầy đủ tác động lâu dài của hình thức tạm giữ tiền bảo hành đối với dòng tiền và sức khỏe tài chính doanh nghiệp.

Một giải pháp thay thế hiệu quả, được áp dụng phổ biến trong thực tiễn quốc tế, chính là Thư Bảo lãnh cho khoản tiền giữ lại (Retention Money Security). Thay vì chấp nhận để tiền mặt bị giữ lại trong thời gian dài, Nhà thầu có thể đề xuất đưa điều khoản này vào hợp đồng: sau khi bàn giao công trình, Nhà thầu phát hành một bảo lãnh ngân hàng với giá trị tương đương để thay thế cho khoản tiền bảo hành đang bị giữ.

Cơ chế này không chỉ đảm bảo quyền lợi của Chủ đầu tư hoặc Nhà thầu chính – khi nghĩa vụ bảo hành được một bên thứ ba uy tín là ngân hàng đứng ra cam kết – mà còn giúp Nhà thầu nhanh chóng giải phóng dòng tiền, nâng cao năng lực tài chính và khả năng triển khai dự án tiếp theo. Đây là một điều khoản hoàn toàn có thể đưa vào đàm phán và có khả năng đạt được sự đồng thuận nếu Nhà thầu có chiến lược thương lượng hợp lý.

Không chỉ vậy, với bản chất là một bảo lãnh nghĩa vụ, Bảo lãnh cho khoản tiền giữ lại hoàn toàn có thể được phát hành ngay từ thời điểm khởi công dự án. Khi đó, Chủ đầu tư không cần phải khấu trừ từng đợt thanh toán để đảm bảo nghĩa vụ bảo hành. Thay vào đó, Chủ đầu tư thanh toán toàn bộ giá trị khối lượng đã thực hiện, còn Nhà thầu cung cấp bảo lãnh cho khoản tiền giữ lại. Khi biên bản nghiệm thu, bàn giao được ban hành, nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng sẽ tự động giảm xuống 50%.

Đây là giải pháp mang lại lợi ích đáng kể cho cả hai bên, nhưng thực tế vẫn chưa được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam. Thông thường, bảo lãnh cho khoản tiền giữ lại chỉ được phát hành ở giai đoạn nghiệm thu và bàn giao công trình, làm giảm đáng kể giá trị và ý nghĩa của công cụ bảo lãnh này.

Tất nhiên, để tận dụng tối đa lợi ích từ bảo lãnh ngân hàng, Nhà thầu cần tham vấn chuyên gia pháp lý và tài chính trước khi chấp thuận bất kỳ loại bảo lãnh nào. Việc ký kết một bảo lãnh không phù hợp hoặc bảo lãnh “vô điều kiện”, “không hủy ngang” có thể gây ra rủi ro tương tự, thậm chí lớn hơn so với hình thức giữ tiền mặt, bởi bên thụ hưởng có thể yêu cầu thanh toán mà không cần chứng minh vi phạm, khiến doanh nghiệp chịu thiệt hại về tài chính và uy tín.

Chính vì vậy, việc đàm phán và đưa điều khoản bảo lãnh ngân hàng thay thế khoản tiền bảo hành không chỉ thể hiện sự chuyên nghiệp của Nhà thầu mà còn là công cụ chiến lược để quản trị rủi ro và tối ưu dòng tiền. Nhà thầu nên chủ động làm việc với các chuyên gia luật xây dựng hoặc luật hợp đồng để lựa chọn loại bảo lãnh phù hợp (bảo lãnh có điều kiện, bảo lãnh giới hạn thời gian, v.v.) và đảm bảo rằng cơ chế thực thi nghĩa vụ bảo hành được thiết kế minh bạch, công bằng, tạo lợi ích cho cả hai bên.

Sai lầm thứ năm: Thiếu sót trong việc lưu trữ hồ sơ

Với kinh nghiệm hợp tác và làm việc với hàng trăm Nhà thầu, CNC nhận thấy rằng ngay cả khi hợp đồng được soạn thảo cẩn trọng, Nhà thầu vẫn thường xuyên mắc một “sai lầm chí mạng”: thiếu sót trong việc lưu trữ hồ sơ.

Cần nhớ rằng một hợp đồng xây dựng có chặt chẽ đến đâu cũng trở nên vô dụng nếu không có hệ thống chứng từ và bằng chứng đầy đủ để thực thi. Quá trình bảo hành và yêu cầu hoàn trả tiền bảo hành là một quy trình pháp lý dài hạn, đòi hỏi sự minh bạch về hồ sơ.

Việc thiếu hoặc không có đầy đủ biên bản nghiệm thu, nhật ký thi công, email và công văn trao đổi về việc khắc phục lỗi, đặc biệt là văn bản yêu cầu hoàn trả tiền bảo hành có xác nhận đã gửi tới Nhà thầu, Chủ Đầu tư có thể đến từ rất nhiều nguyên nhân, chẳng hạn (i) việc thay đổi nhân sự; (ii) việc thất lạc hồ sơ do bị mất, bị cháy, bị hỏng thiết bị lưu trữ, bị mối mọt phá hoại.

Tất cả hệ quả của việc thiếu, không đủ hồ sơ liên quan đến quản lý chất lượng công trình, về bảo hành sẽ khiến Nhà thầu hoặc Nhà thầu phụ rơi vào thế yếu khi xảy ra tranh chấp. Thiếu bằng chứng, Nhà thầu khó chứng minh mình đã hoàn thành nghĩa vụ đúng hạn và thiện chí, và mọi lập luận chỉ dừng lại ở lời nói không có giá trị pháp lý.

Đặc biệt, trong quá trình hỗ trợ Nhà thầu phụ khiếu nại để thu hồi tiền bảo hành, CNC thường gặp nhiều tình huống:

  • Nhà thầu phụ không được Nhà thầu chính cấp Biên bản nghiệm thu (Taking-Over Certificate) cho cả dự án hoặc công trình theo Hợp đồng chính;
  • Không lưu trữ đề nghị thanh toán khoản tiền tiền bảo hành;
  • Toàn bộ các trao đổi chỉ diễn ra qua nhóm chat dự án (như Zalo) thay vì email hay công văn chính thức mà không thể truy xuất sau khi một nhân sự bị mất quyền truy cập.

Sai lầm thứ năm: Thiếu sót trong việc lưu trữ hồ sơ

Những thiếu sót nêu trên đều trở thành điểm yếu chết người của Nhà thầu, đặc biệt là Nhà thầu phụ trong các tranh chấp về tiền bảo hành.

Sai lầm thứ sáu: Chấp nhận điều khoản thanh toán giáp lưng (“Pay – when – paid”)

Có thể nói, đây là sai lầm “chết người” lớn nhất, phổ biến nhất mà các Nhà thầu phụ mắc phải. Việc Nhà thầu phụ chấp thuận điều khoản ràng buộc vào bên thứ ba: thanh toán giáp lưng (“pay – when – paid” hoặc “pay upon paid”): nghĩa vụ chỉ đến hạn khi Nhà thầu chính nhận được khoản thanh toán từ Chủ đầu tư) chính là đang đặt gánh nặng tài chính, rủi ro tài chính của người khác lên vai của mình.

Một thỏa thuận thanh toán giáp lưng (“pay – when – paid”) điển hình trong việc hoàn trả tiền bảo hành hợp đồng thầu phụ thường được Nhà thầu thỏa thuận như sau:

“Tiền bảo hành sẽ được Nhà thầu chính hoàn trả cho Nhà thầu phụ trong vòng x ngày kể từ khi Nhà thầu chính nhận được khoản thanh toán [tương ứng] từ Chủ đầu tư”.

Miễn trừ: Bản tin này được chuẩn bị hoặc được sử dụng vì mục đích giới thiệu hoặc cập nhật cho khách hàng những thông tin về những vấn đề và/hoặc sự phát triển các quan điểm pháp lý tại Việt Nam. Các thông tin được trình bày tại bản tin này không tạo thành ý kiến tư vấn thuộc bất kỳ loại nào và có thể được thay đổi mà không cần phải thông báo trước.

Khi đó, về mặt pháp lý thì điều khoản thanh toán giáp lưng (pay – when – paid) đã chuyển toàn bộ rủi ro tài chính mà Nhà thầu chính phải đối mặt (trong mối quan hệ giữa nhà thầu chính – chủ đầu tư) sang cho nhà thầu phụ, vốn là bên thứ ba độc lập và không có khả năng kiểm soát mối quan hệ đó.

Trường hợp tiềm ẩn rủi ro nghiêm trọng nhất chính là khi Nhà thầu phụ đã hoàn thành toàn bộ công việc của mình để Nhà thầu chính bàn giao cho Chủ đầu tư, tuy nhiên lại không thể nhận lại khoản tiền bảo hành của mình bởi vì những vấn đề thuộc trách nhiệm của Nhà thầu chính (chẳng hạn sai sót trong việc bảo hành từ chính Nhà thầu chính, Nhà thầu chính bị khấu trừ tiền từ các nhà thầu phụ khác v.v.). Lúc này, khoản tiền bảo hành của Nhà thầu phụ đột nhiên trở thành “con tin” cho những nghĩa vụ không phải của mình, và điều duy nhất Nhà thầu phụ có thể làm là “ngồi im và chờ”.

Không chỉ vậy, ngay cả khi Nhà thầu chính đã nhận được khoản tiền bảo hành từ Chủ đầu tư, Nhà thầu phụ cũng không có bất kỳ bằng chứng cụ thể nào để xác định thời điểm này, ngoài việc tin vào sự minh bạch của Nhà thầu chính. Nói cách khác, Nhà thầu phụ thậm chí không nắm rõ thời điểm đến hạn để yêu cầu thanh toán khoản tiền bảo hành thuộc về mình.

(Xem thêm Những vấn đề về hoàn trả tiền bảo hành trong thực tiễn)

Rõ ràng, việc hiểu đúng và hành động chuẩn xác ngay từ ban đầu là chìa khóa để bảo vệ lợi ích của Nhà thầu phụ. Để tránh mắc phải 05 sai lầm “chết người” này và đảm bảo Điều khoản Hoàn Trả Tiền Bảo Hành của Nhà thầu phụ được soạn thảo chặt chẽ, giảm thiểu rủi ro pháp lý và tài chính, đừng ngần ngại tìm kiếm sự tư vấn chuyên nghiệp. Đội ngũ luật sư của CNC luôn sẵn sàng đồng hành cùng bạn, giúp bạn tự tin hơn trong mọi hợp đồng xây dựng.

Liên hệ

Mọi thông tin vui lòng liên hệ:

Công ty Luật TNHH CNC Việt Nam

Địa chỉ:        The Sun Avenue, 28 Mai Chí Thọ, Phường Bình Trưng, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

Điện thoại:   028 6276 9900

Hotline:        0916 545 618

Email:          contact@cnccounsel.com

Website:        cnccounsel

Phụ trách

Le The Hung Lê Thế Hùng | Luật sư Điều hành

Điện thoại: 0916 545 618

Email: hung.le@cnccounsel.com

Kiều Nữ Mỹ Hảo | Cộng sự

Điện thoại: 036 619 2305

Email: hao.kieu@cnccounsel.com

[1] Khoản 14.9 [Thanh toán Tiền giữ lại], FIDIC Redbook 1999.

[2] Khoản 14.9 [Thanh toán tiền giữ lại], FIDIC Đỏ 1999.

Miễn trừ:

Bản tin này được chuẩn bị hoặc được sử dụng vì mục đích giới thiệu hoặc cập nhật cho khách hàng những thông tin về những vấn đề và/hoặc sự phát triển các quan điểm pháp lý tại Việt Nam. Các thông tin được trình bày tại bản tin này không tạo thành ý kiến tư vấn thuộc bất kỳ loại nào và có thể được thay đổi mà không cần phải thông báo trước.

Content Protection by DMCA.com

Để lại một bình luận

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.