Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật Việt Nam

Ngày đăng: Thứ Ba, 16/09/25 Người đăng: Admin
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật Việt Nam

Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật Việt Nam

Một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực là nền tảng pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo quá trình tố tụng trọng tài được thực hiện trên thực tế. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài không chỉ quyết định đến việc Hội đồng Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không, mà còn tác động trực tiếp đến giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài. Vì vậy, các quy định xoay quanh vấn đề đảm bảo hiệu lực của thỏa thuận trọng tài luôn là vấn đề phải được các bên quan tâm hàng đầu khi tiến hành xác lập thỏa thuận.

Trong bài viết này, CNC tiến hành phân tích những vấn đề tác động đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật Việt Nam và các vấn đề xoay quanh việc đảm bảo hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị, đề xuất chiến lược ứng phó nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài một cách hiệu quả.

I. Nguyên tắc xác định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật Việt Nam

Trước tiên cần lưu ý, Luật Trọng tài Thương mại 2010 không quy định cụ thể các điều kiện thỏa mãn để một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Thay vào đó, các điều kiện này được phân bổ không tập trung tại các quy định như Điều 16 về hình thức thỏa thuận trọng tài, Điều 18 Luật trọng Tài thương mại 2010 về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, … Cách quy định theo cơ chế “chọn-bỏ”[1] như vậy của Luật Trọng Tài Thương Mại 2010 đã mở rộng gần như tối đa các trường hợp thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.

Thỏa Thuận Trọng Tài Có Hiệu Lực Phải Được Lập Bằng “Văn Bản”

Về nguyên tắc, thỏa thuận trọng tài phải đáp ứng điều kiện về hình thức theo Điều 16 Luật Trọng Tài Thương Mại 2010, cụ thể là phải được xác lập bằng văn bản. Điều kiện này nhằm mục đích chứng minh sự tồn tại của một thỏa thuận trọng tài một cách minh thị nhất, tránh rủi ro một trong các bên khiếu nại việc không tồn tại thỏa thuận trọng tài khiến cho quy trình tố tụng trọng tài trở nên phức tạp hoặc bị gián đoạn.

Tuy nhiên, hình thức “văn bản” cũng được Luật Trọng Tài Thương Mại 2010 quy định vô cùng linh hoạt thay vì cách hiểu “văn bản” truyền thống. Cụ thể, Điều 16, Luật Trọng Tài Thương Mại 2010 ghi nhận các hình thức dưới đây đều sẽ được xem là hình thức “văn bản”:

Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật Việt Nam

Cần lưu ý thêm rằng, việc tồn tại của một thỏa thuận trọng tài bằng văn bản vẫn chưa bảo đảm hiệu lực và khả năng thực thi trên thực tế của thỏa thuận trọng tài. Như được đề cập ở phần trên, thỏa thuận trọng tài được xác lập còn cần đảm bảo thêm 02 (hai) yếu tố:

  • không thuộc các trường hợp bị vô hiệu theo Điều 18, Luật Trọng Tài Thương Mại 2010; và
  • không rơi vào trường hợp không thể thực hiện được theo Điều 4, Nghị quyết 01/2014[2].

Thỏa Thuận Trọng Tài Không Có Hiệu Lực Nếu Thuộc Điều 18, Luật Trọng Tài Thương Mại 2010

Thông qua cách tiếp cận của các nhà lập pháp, có thể thấy rằng, về nguyên tắc một thỏa thuận trọng tài sẽ được xem là có hiệu lực nếu không thuộc trường hợp bị vô hiệu. Do đó, ngay cả khi các bên đã thỏa thuận lựa chọn trọng tài, việc đưa tranh chấp ra giải quyết vẫn phụ thuộc vào những điều kiện cơ bản khác, bao gồm thẩm quyền giải quyết của trọng tài, năng lực chủ thể tham gia, và sự tự nguyện trong việc xác lập thỏa thuận.

Nguyên tắc này vừa thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, vừa bảo đảm sự cân bằng giữa quyền tự do thỏa thuận và đảm bảo tuân thủ pháp luật Việt Nam. Theo đó, Điều 18, Luật Trọng tài Thương mại 2010 đưa ra danh sách cụ thể các trường hợp thỏa thuận trọng tài sẽ không có hiệu lực như sau:

Thỏa Thuận Trọng Tài Không Có Hiệu Lực Nếu Tranh Chấp Không Thuộc Thẩm Quyền Giải Quyết Của Trọng Tài[3]

Một thỏa thuận trọng tài sẽ không có hiệu lực nếu đối tượng tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Cần lưu ý rằng, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam hiện nay chỉ được áp dụng đối với tranh chấp về kinh doanh thương mại. Theo đó, thẩm quyền của trọng tài được xác định dựa trên ba trường hợp cụ thể như sau:

Tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại

Trường hợp đầu tiên là tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Do đó, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực nếu tranh chấp phát sinh từ các giao dịch, hành vi có bản chất thương mại, như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hay đầu tư, … Ngoài những tranh chấp như trên, về nguyên tắc, các tranh chấp không nhằm mục đích sinh lợi như hôn nhân gia đình, dân sự, hành chính, … sẽ không thuộc thẩm quyền của trọng tài.

Một trong các bên tham gia hoạt động thương mại

Thẩm quyền trọng tài không chỉ giới hạn ở các tranh chấp phát sinh trực tiếp từ hoạt động thương mại mà còn mở rộng sang các tranh chấp có liên quan đến hoạt động thương mại, miễn là có ít nhất một bên tham gia là tổ chức, cá nhân có hoạt động thương mại. Điều này cho thấy pháp luật trọng tài không chỉ tập trung vào bản chất giao dịch mà còn xét đến chủ thể của tranh chấp.

Tuy nhiên, cần đặc biệt lưu ý đối với một số tranh chấp mà có một bên tham gia hoạt động thương mại mà một bên còn lại là:

Tranh chấp giải quyết bằng trọng tài theo quy định

Ngoài hai trường hợp trên, thẩm quyền của trọng tài còn được mở rộng đối với các tranh chấp khác khi có quy định cụ thể của pháp luật chuyên ngành. Một số quy định điển hình như: Khoản 2 Điều 14 Luật Đầu tư năm 2020, Khoản 2 Điều 5 và Khoản 6 Điều 287 Bộ luật Hàng hải 2015; Khoản 1 Điều 151 Luật Doanh nghiệp 2020; Điểm b Khoản 8 Điều 146 Luật Xây dựng 2014,…

Thông qua ba nhóm trường hợp trên, có thể thấy rằng pháp luật Trọng tài Việt Nam được thiết kế theo hướng “chọn-cho”[4]. Trong khi đó, một số nước lại lựa chọn quy định theo mô hình “chọn-bỏ” (negative list), tức là quy định cụ thể những loại tranh chấp không được đưa ra Trọng tài, ngoài những giới hạn theo luật định thì các loại tranh chấp còn lại, các bên đều được quyền thỏa thuận lựa chọn giải quyết bằng cơ chế trọng tài. Chẳng hạn, Luật Trọng tài của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chỉ giới hạn 02 (hai) nhóm tranh chấp sau không được giải quyết bằng Trọng tài:

“Điều 3: Không thể sử dụng Trọng tài đối với các tranh chấp sau:

  1. Tranh chấp liên quan đến hôn nhân, giám hộ, nhận nuôi con nuôi, cấp dưỡng, thừa kế;
  2. Tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính theo quy định pháp luật”[5]

Hướng tiếp cận theo mô hình “chọn-bỏ” của Trung Quốc cũng mang lại ưu điểm nhất định, đặc biệt là giúp các bên dễ dàng nhận diện phạm vi thẩm quyền của Trọng tài, từ đó giảm thiểu rủi ro pháp lý và tăng cường tính dự đoán của hệ thống pháp luật trọng tài.

Thỏa Thuận Trọng Tài Không Có Hiệu Lực Nếu Không Đáp Ứng Điều Kiện Chủ Thể

Không chỉ là thỏa thuận trọng tài, mà chính chủ thể xác lập thỏa thuận trọng tài cũng cần đáp ứng các điều kiện nhất định để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Nếu như chủ thể tham gia thỏa thuận trọng tài thuộc một trong ba trường hợp dưới đây thì thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực vì bị vô hiệu:

Thứ nhất, người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền

Theo khoản 2 Điều 18 Luật Trọng Tài Thương Mại 2010, thỏa thuận trọng tài sẽ không có hiệu lực và bị vô hiệu nếu người ký kết không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trong đó, Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 01/2014 đã quy định chi tiết người ký kết không có thẩm quyền được xác định như sau:

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, ngay cả khi rơi vào một trong các trường hợp nêu trên của Nghị quyết số 01/2014, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực nếu trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc trong tố tụng trọng tài, người có thẩm quyền đã chấp nhận hoặc biết mà không phản đối[6]. Cách tiếp cận này phản ánh nguyên tắc thiện chí, trung thực trong quan hệ hợp đồng. Theo đó, một bên không thể vừa thừa nhận hiệu lực của thỏa thuận trọng tài bằng sự im lặng hoặc hành vi tham gia, vừa quay lại phủ nhận nó để chiếm lợi thế về tố tụng.

Trong thực tiễn, Tòa án TP. Hồ Chí Minh trong Quyết định số 810/2017[7] đã nhận định rằng, mặc dù hợp đồng và thỏa thuận trọng tài được ký bởi ông Toshio (Bị Đơn), không phải người đại diện pháp luật, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài vẫn tồn tại vì Bị Đơn sau đó đã chấp nhận và không phản đối.[8] Nhận định của Tòa TP.HCM không chỉ phù hợp với Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 01/2014 mà còn phù hợp với tình tiết cụ thể của vụ án, khi mà thực tế phía Bị đơn hoàn toàn biết và nhận thức được sự tồn tại của một thỏa thuận trọng tài do ông Toshio xác lập trong quan hệ hợp đồng với Nguyên đơn.

Theo đó hồ sơ vụ tranh chấp thể hiện, trong quá trình thi công, mặc dù người ký hợp đồng là ông Toshio nhưng hai công ty đã thực tế có nhiều văn bản trao đổi và đối chiếu công nợ, thể hiện sự thừa nhận của họ về quyền và nghĩa vụ của các bên. Những tình tiết nêu trên thể hiện Bị đơn đang hoàn toàn đi ngược lại với nguyên tắc thiện chí, trung thực khi thực hiện hợp đồng khi đề nghị tuyên vô hiệu thỏa thuận trọng tài, từ đó tuyên hủy phán quyết trọng tài được ban hành trước đó.

Thứ hai, người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự

Theo Khoản 3 Điều 18 Luật Trọng Tài Thương Mại 2010, thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực khi “người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự”. Khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 01/2014 cũng làm rõ thêm “người không có năng lực hành vi dân sự” là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Có thể thấy rằng, người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là nhóm đối tượng đặc biệt. Đây là những chủ thể không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi hoặc đưa ra quyết định một cách tự nguyện và có đầy đủ trách nhiệm. Do đó, pháp luật cần phải có cơ chế bảo vệ họ, đảm bảo mọi giao dịch, bao gồm cả việc xác lập thỏa thuận trọng tài, phải thông qua người đại diện hợp pháp để đảm bảo quyền và lợi ích của họ không bị xâm phạm. Việc thỏa thuận trọng tài có thể bị tuyên vô hiệu trong trường hợp này nhằm ngăn chặn rủi ro pháp lý và đảm bảo tính công bằng trong quan hệ dân sự.

Chế định này cũng hoàn toàn tương thích với Điều V.1.a Công ước New York 1958. Theo đó, Công ước quy định phán quyết trọng tài cũng có thể bị từ chối công nhận nếu thỏa thuận trọng tài được xác lập bởi người không có năng lực theo luật áp dụng đối với họ.

Thứ ba, một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép

Một thỏa thuận trọng tài sẽ không có hiệu lực nếu được xác lập thông qua các hành vi lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Mục đích của quy định này là để bảo vệ nguyên tắc tự nguyện và tự do ý chí, vốn là nền tảng cốt lõi của mọi giao dịch dân sự và thương mại. Một thỏa thuận chỉ có giá trị pháp lý khi ý chí của các bên được thể hiện một cách hoàn toàn độc lập và tự do.

Như vậy, khi một bên bị ép buộc tham gia thỏa thuận trọng tài, họ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận đó vô hiệu[9].

Có thể thấy rằng, những hành vi này khiến thỏa thuận trọng tài từ một thỏa thuận, cam kết tự nguyện thành một thỏa thuận bị áp đặt. Do đó, việc pháp luật xác định thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực này là cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, từ đó, đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong các quan hệ dân sự.

Thỏa Thuận Trọng Tài Không Có Hiệu Lực Nếu Hình Thức Không Đúng Quy Định

Như phân tích tại Mục 1, điều kiện cần khi xem xét hiệu lực của Thỏa Thuận Trọng Tài là hình thức của nó phải dưới dạng “văn bản” được quy định tại Điều 16, Luật Trọng Tài Thương Mại 2010. Do đó, một khi thỏa thuận trọng tài không đảm bảo về hình thức, thỏa thuận trọng tài như vậy sẽ không có hiệu lực theo khoản 2, Điều 18 Luật này.

Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần trước, khái niệm “văn bản” được hiểu theo nghĩa rất rộng. Thay vì chỉ giới hạn trong các văn bản truyền thống, pháp luật hiện nay đã bao hàm cả các hình thức trao đổi qua phương tiện điện tử như email, fax, hoặc hoặc các tin nhắn có thể lưu trữ. Thậm chí, việc các bên trao đổi đơn kiện và bản tự bảo vệ mà một bên không phủ nhận sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài cũng được coi là một hình thức văn bản.

Thoả Thuận Trọng Tài Không Có Hiệu Lực Nếu Vi Phạm Điều Cấm Của Pháp Luật

Khoản 6 Điều 18, Luật Trọng Tài Thương Mại 2010 quy định thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực nếu “vi phạm điều cấm của pháp luật”. Đây được xem là một “điều khoản quét” (catch-all clause) bởi phạm vi rất rộng, không giống với các trường hợp vô hiệu (mô hình “chọn-bỏ”) đã được phân tích ở trên.

Việc xây dựng “điều khoản quét” cho thấy nhà làm luật chủ động tạo ra một cơ chế dự phòng, trong bối cảnh không thể tiên liệu đầy đủ các tình huống có thể phát sinh trên thực tế. Nhờ đó, quy định đóng vai trò như một cơ chế “dự phòng”, cho phép loại bỏ hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong mọi trường hợp mà nội dung hoặc mục đích của thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật.

Trong đó, “điều cấm của pháp luật” cần được hiểu theo nghĩa hẹp, nghĩa là luật phải quy định rõ rằng “cấm” thay vì các thuật ngữ khác, như “hạn chế”, “có điều kiện”, …

Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được

Bên cạnh trường hợp thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực do thuộc trường hợp vô hiệu như được phân tích tại Mục 2, một trường hợp đặc biệt khác cũng tác động trực tiếp đến khả năng thực thi của thỏa thuận trọng tài đó là thỏa thuận trọng tài không thực hiện được.

Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được là thỏa thuận trọng tài được xác lập hợp pháp, có hiệu lực tuy nhiên lại không khả thi để thực hiện trên thực tế và trọng tài theo đó không còn thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan[10]. Đây chính là lý do khiến cho nó trở thành một trường hợp vô cùng đặc biệt và cần xem xét khi xác lập thỏa thuận trọng tài. Theo đó, để rõ ràng, Điều 4 Nghị quyết số 01/2014 quy định minh thị các trường hợp thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được, bao gồm:

Tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử, xác định thế nào là trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được cũng là một vấn đề tranh cãi. Bởi lẽ, ngoài các trường hợp luật định, thực tiễn còn phát sinh tình huống khác nhau.

Điển hình là trường hợp các bên thỏa thuận một trung tâm trọng tài với tên gọi không tồn tại trên thực tế. Trong Quyết định giám đốc thẩm số 08/2021/KDTM-GĐT ngày 15/7/2021, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã nhận định:[11]

Do không có trung tâm trọng tài nào có tên là “Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh” như các bên thỏa thuận nên thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được…”.

Về việc xác định các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, tồn tại hai luồng quan điểm, cụ thể:

Ở mỗi quan điểm đều tồn tại các lý do hợp lý khác nhau. Theo quan điểm của chúng tôi, trường hợp này không nên quy vào loại thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được tại Khoản 1 Điều 4, Nghị quyết 01/2014. Bởi lẽ, trong vụ việc được đề cập, các bên đã thỏa thuận lựa chọn không đúng tên của trung tâm trọng tài mà không phải là trung tâm trọng tài được chọn ngừng hoạt động mà không có tổ chức kế thừa. Thay vào đó, trường hợp nên được xem xét thuộc khoản 5 Điều 43, Luật trọng Tài thương mại 2010, mang bản chất là một “thỏa thuận trọng tài không rõ ràng” và cần yêu cầu các bên thực hiện việc làm rõ trước khi một bên nộp đơn khởi kiện[12].

II. Vấn đề liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài

Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài không rõ ràng

“Thỏa thuận trọng tài không rõ ràng” có thể được xem là một dạng phái sinh của thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được theo quy định tại Khoản 5 Điều 43, Luật Trọng tài Thương Mại 2010. Điều này nghĩa là, về bản chất, thỏa thuận trọng tài không rõ ràng vẫn là một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và có khả năng thực hiện được khi các bên tiến hành làm rõ và do đó, trọng tài vẫn có thẩm quyền thụ lý giải quyết tranh chấp ưu tiên so với Tòa án.

Khoản 5, Điều 43, Luật Trọng tài Thương Mại 2010 mô tả trường hợp này là khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng trong thỏa thuận lại không chỉ rõ hình thức trọng tài hoặc không thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể. Trong tình huống này, Luật trọng Tài Thương Mại 2010 vẫn cho phép các bên phải tiến hành “làm rõ” thỏa thuận bằng cách thỏa thuận lại về nội dung còn thiếu hoặc chưa xác định. Trường hợp các bên không thỏa thuận được, việc xác định hình thức hoặc tổ chức trọng tài sẽ được thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn.[13]

Tính độc lập về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài (Doctrine of separability)

Hiện nay, nhiều người vẫn quan ngại hoặc có nhầm lẫn về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng. Thế nhưng, Điều 19 Luật Trọng Tài Thương Mại 2010 đã khẳng định tính độc lập của thỏa thuận trọng tài so với hợp đồng chính, trong đó bao gồm cả độc lập về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài:

Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài[14]

Quy định này có ý nghĩa bảo vệ cơ chế trọng tài, ngăn ngừa tình trạng một bên cố tình viện dẫn sự vô hiệu của hợp đồng để làm gián đoạn hoặc thậm chí là muốn tranh chấp được giải quyết bằng cơ chế trọng tài. Đây cũng là một trong những nguyên tắc được thừa nhận trong Luật Mẫu UNCITRAL[15] và thực tiễn của nhiều hệ thống pháp luật, điển hình như Luật Trọng tài Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa[16].

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, khi quan hệ hợp đồng được chuyển giao thì thỏa thuận trọng tài cũng được chuyển giao cùng. Theo khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 01, khi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ một giao dịch, hợp đồng có thỏa thuận trọng tài hợp pháp được chuyển giao, thỏa thuận trọng tài đó vẫn có hiệu lực đối với bên được chuyển giao và bên nhận chuyển giao. Điều này bảo đảm tính liên tục và khả năng thực thi của thỏa thuận trọng tài, ngay cả khi các chủ thể trong quan hệ hợp đồng thay đổi.

Doanh nghiệp cần làm gì khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được?

Việc phát hiện thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được có thể xảy ra ở những thời điểm khác nhau trong quá trình giải quyết tranh chấp. Ở mỗi giai đoạn, hệ quả pháp lý sẽ khác nhau[17], đồng thời cũng đòi hỏi doanh nghiệp có chiến lược ứng phó phù hợp để bảo vệ quyền lợi của mình.

Giai đoạn trước khi nộp đơn khởi kiện

Khi tranh chấp phát sinh nhưng quá trình tố tụng chưa bắt đầu, Nguyên đơn có hai hướng giải quyết:

(i) chủ động thương lượng với đối tác để “chữa” điều khoản bằng cách ký phụ lục hoặc thỏa thuận mới; hoặc

(ii) nếu nhận thấy thỏa thuận trọng tài rõ ràng vô hiệu/không thể thực hiện, có thể khởi kiện ra Tòa án theo Điều 6 Luật Trọng Tài Thương Mại 2010, thay vì nộp đơn khởi kiện tại Trọng tài khiến cho thời gian giải quyết tranh chấp bị kéo dài.

Giai đoạn đã nộp đơn khởi kiện nhưng Hội đồng trọng tài chưa được thành lập.

Các bên trong tranh chấp cần lưu ý, việc xem xét hiệu lực và khả năng thực hiện được của thỏa thuận trọng tài có thể được thực hiện bởi Trung tâm trọng tài mà Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện đối với trường hợp là trọng tài thường trực. Nếu Trung tâm trọng tài nhận thấy thỏa thuận trọng tài được Nguyên đơn viện dẫn là một thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực – vô hiệu, hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Trung tâm trọng tài sẽ từ chối việc thụ lý giải quyết.

Trong trường hợp này, doanh nghiệp khi là Nguyên đơn thì cần chuẩn bị phương án “kép”:

  • sửa đổi điều khoản trọng tài (nếu đối phương đồng ý); hoặc
  • nhanh chóng nộp đơn khởi kiện tại Tòa án để tránh lãng phí thời gian giải quyết tranh chấp.

Thế nhưng trong rất nhiều trường hợp trên thực tế, việc phát hiện hiệu lực của thỏa thuận trọng tài lại không được thực hiện ngay tại bước thụ lý đơn khởi kiện bởi Trung tâm Trọng tài mà chỉ được phát hiện bởi Bị đơn, khi mà Trung tâm đã thụ lý giải quyết tranh chấp.

Lúc này, dưới góc độ là Bị đơn trong vụ tranh chấp, một khi doanh nghiệp cho rằng thỏa thuận vô hiệu/không thể thực hiện được thì Bị đơn cần phải tiến hành phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài ngay lập tức tại Bản tự bảo vệ thay vì đợi đến khi có phán quyết. Không chỉ vậy, việc phản đối còn phải được duy trì liên tục để tránh bị “mất quyền phản đối” theo Điều 13 Luật Trọng Tài Thương Mại 2010.

Giai đoạn Hội đồng trọng tài đã thành lập

Một khi Hội đồng trọng tài được thành lập, Hội đồng trọng tài bắt buộc phải xem xét thẩm quyền của chính mình, bao gồm: (i) hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; (ii) khả năng thực hiện thỏa thuận trọng tài; và (iii) thẩm quyền của mình (nguyên tắc kompetenz-kompetenz). Nếu Hội đồng xác định thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện, Hội đồng phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc.[18] Khi đó, nếu doanh nghiệp đóng vai trò là Nguyên đơn thì cần nhanh chóng tiến hành chuẩn bị lại hồ sơ để khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự.

Đối với trường hợp Hội đồng Trọng tài ra quyết định vẫn có thẩm quyền giải quyết tranh chấp mặc dù Bị đơn đã phản đối dựa trên cơ sở thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực hoặc không thể thực hiện được, Bị đơn theo đó có thể tiến hành nộp đơn khiếu nại đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án xem xét lại quyết định của Hội đồng Trọng tài theo quy định tại Điều 44, Luật trọng Tài thương mại 2010. Trường hợp Tòa án kết luận thỏa thuận trọng tài vô hiệu, hoặc không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài phải ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp.

Giai đoạn sau khi có phán quyết trọng tài

Nếu thỏa thuận trọng tài bị phát hiện vô hiệu sau khi phán quyết đã được ban hành, doanh nghiệp sẽ đối mặt với rủi ro nghiêm trọng hơn, đó là phán quyết trọng tài được ban hành sẽ bị hủy bỏ. Cụ thể:

Đối với phán quyết trọng tài trong nước, doanh nghiệp có thể thỏa thuận lại để đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài hoặc chuyển hướng khởi kiện ra Tòa án theo khoản 8 Điều 71 Luật trọng Tài thương mại 2010.

Đối với phán quyết trọng tài nước ngoài, doanh nghiệp cần nhanh chóng đánh giá phạm vi tài sản của bên phải thi hành: Nếu tài sản ở quốc gia khác, bên thắng kiện có thể xem xét khởi động thủ tục công nhận và thi hành tại quốc gia đó theo Công ước New York 1958. Tuy nhiên, nếu tài sản chỉ tập trung tại Việt Nam, việc khởi kiện lại tại Tòa án Việt Nam có thể là một lựa chọn, nhưng cần cân nhắc kỹ lưỡng về thời hiệu khởi kiện, chi phí tố tụng cũng như khả năng thành công thực tế. Do đó, đối với doanh nghiệp là bên yêu cầu thi hành, việc kiểm soát chặt chẽ hiệu lực và khả năng thực thi của thỏa thuận trọng tài ngay từ giai đoạn đàm phán, ký kết hợp đồng là hết sức quan trọng nhằm giảm thiểu rủi ro trong giai đoạn hậu phán quyết.

III. Kết luận và kiến nghị

Để bảo đảm hiệu lực và khả năng thực thi của thỏa thuận trọng tài, trước hết, các bên nên tham khảo và áp dụng điều khoản trọng tài mẫu do chính trung tâm trọng tài mà mình lựa chọn ban hành. Việc này không chỉ giúp giảm thiểu rủi ro về hình thức và nội dung mà còn bảo đảm tính thống nhất với quy tắc tố tụng vốn đã được chuẩn hóa và áp dụng ổn định trong thực tiễn.

Một vấn đề khác cũng cần các bên lưu ý chính là, thỏa thuận trọng tài cần chỉ rõ tổ chức trọng tài được lựa chọn. Việc xác định cụ thể trung tâm trọng tài sẽ loại bỏ nguy cơ tranh chấp về thẩm quyền hoặc tình trạng điều khoản trọng tài bị coi là không thể thực hiện do nội dung mơ hồ. Cùng với đó, các bên cũng nên thỏa thuận minh bạch về loại hình trọng tài (trọng tài quy chế hay trọng tài vụ việc), quy tắc tố tụng áp dụng, cũng như các yếu tố thiết yếu khác như ngôn ngữ, địa điểm và số lượng trọng tài viên.

Trong trường hợp phát hiện các khiếm khuyết của thỏa thuận trọng tài, các bên cần kịp thời chủ động đàm phán, sửa đổi hoặc bổ sung. Việc điều chỉnh sớm không chỉ bảo đảm khả năng vận hành của thỏa thuận trong thực tế mà còn hạn chế nguy cơ thỏa thuận bị vô hiệu, kéo theo việc mất đi cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vốn nhanh chóng và linh hoạt hơn tòa án.

Từ những phân tích trên, sự cẩn trọng ngay từ giai đoạn soạn thảo và rà soát điều khoản trọng tài là yếu tố then chốt. Chúng không chỉ giúp các bên củng cố giá trị pháp lý của thỏa thuận mà còn góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn của trọng tài thương mại như một cơ chế giải quyết tranh chấp đáng tin cậy.

Liên hệ

Mọi thông tin vui lòng liên hệ:

Công ty Luật TNHH CNC Việt Nam

Địa chỉ: The Sun Avenue, 28 Mai Chí Thọ, Phường Bình Trưng, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

Điện thoại: 028 6276 9900

Hotline: 0916 545 618

Email:  contact@cnccounsel.com

Website: cnccounsel

Phụ trách

Le The Hung Lê Thế Hùng | Luật sư Điều hành

Điện thoại: 0916 545 618

Email: hung.le@cnccounsel.com

Kiều Nữ Mỹ Hảo | Cộng sự

Điện thoại: 036 619 2305

Email: hao.kieu@cnccounsel.com

Nguyễn Lê Anh Thư | Trợ lý luật sư

Điện thoại: (84) 28 6276-9900

Email: thu.nguyen@cnccounsel.com

[1] Quy định theo hướng “chọn-bỏ” (negative list) nghĩa là chỉ quy định một số trường hợp cụ thể khiến cho thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực, ngoài những trường hợp được liệt kê thì các thỏa thuận trọng tài được mặc định là có hiệu lực.

[2] Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/03/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng Tài Thương Mại 2010.

[3] Điều 2, Luật trọng Tài thương mại 2010.

[4] Mô hình “chọn-cho” (positive list”) là quy định theo hướng liệt kê các lĩnh vực giới hạn được giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại, các lĩnh vực ngoài danh mục liệt kê sẽ được hiểu là không được chọn cơ chế giải quyết bằng trọng tài.

[5] Truy cập tại: Arbitration Law of the People’s Republic of China, [https://english.court.gov.cn/2015-09/11/c_761548_2.htm], truy cập lần cuối ngày 8/9/2025.

[6] Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 01/2014.

[7] Quyết định số 810/2017/QĐ-PQTT ngày 29/6/2017.

[8] MCAC, “Chuyên đề: Thỏa thuận trọng tài được xác lập bởi người không có quyền đại diện theo pháp luật”, https://mcac.vn/hop-dong-do-nguoi-khong-co-quyen-dai-dien-theo-phap-luat, truy cập lần cuối ngày 15/08/2025.

Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, Lừa dối là hành vi cố ý làm cho bên còn lại hiểu sai về bản chất của giao dịch, khiến họ ký kết thỏa thuận mà không biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình. Trong khi đó, đe dọa, cưỡng ép là hành vi sử dụng bạo lực hoặc uy hiếp về tinh thần để buộc một bên phải tham gia giao dịch, nhằm tránh những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản của họ hoặc người thân.

[10] Điều 6, Luật Trọng Tài Thương Mại 2010 quy định, trường hợp thỏa thuận trọng tài mà các bên xác lập thuộc trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được theo Điều 4, Nghị Quyết 01/2014/NQ-HĐTP thì Tòa án sẽ là cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm quyền mà không phải là Trọng tài.

[11] Phương Linh, “Về trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”, https://www.toaan.gov.vn/webcenter/ShowProperty?nodeId=/UCMServer/TAND308180, lần cuối truy cập ngày 15/08/2025.

[12] Được phân tích thêm tại mục II.1.

[13] Theo khoản 5 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại 2010.

[14] Theo Điều 19 Luật Trọng tài thương mại 2010.

[15] Khoản 1 Điều 16 Luật Mẫu UNCITRAL, cũng quy định rằng một điều khoản trọng tài được quy định trong một hợp đồng sẽ được coi là một thỏa thuận độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng. Ngay cả khi hợp đồng bị tòa án tuyên vô hiệu cũng sẽ không đương nhiên kéo theo hệ quả điều khoản trọng tài vô hiệu.

[16] Điều 19 Luật Trọng tài Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cũng quy định rằng hiệu lực của thỏa thuận trọng tài là hoàn toàn độc lập và không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi, hủy bỏ, chấm dứt hay vô hiệu hợp đồng.

[17] Dương Hồng Nhung (2025), “Hoàn thiện quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo Luật Trọng tài Thương mại năm 2010”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, kỳ 1(424), tr. 12 -13.

[18] Khoản 1 Điều 43, Luật trọng Tài thương mại 2010.

Miễn trừ:

Bản tin này được chuẩn bị hoặc được sử dụng vì mục đích giới thiệu hoặc cập nhật cho khách hàng những thông tin về những vấn đề và/hoặc sự phát triển các quan điểm pháp lý tại Việt Nam. Các thông tin được trình bày tại bản tin này không tạo thành ý kiến tư vấn thuộc bất kỳ loại nào và có thể được thay đổi mà không cần phải thông báo trước.

Content Protection by DMCA.com

Để lại một bình luận

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.