Bên cạnh hai cơ chế giải quyết tranh chấp thường thấy là Hòa giải và Trọng tài vụ việc trong các Hiệp định thông thường, Hiệp định Bảo hộ Đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVIPA) đã bổ sung thêm một cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư rất đáng chú ý – Hệ thống Tòa án đầu tư (ITS hay ICS).
EVIPA và Cơ chế Giải Quyết Tranh Chấp Đầu tư
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) là một FTA thế hệ mới giữa Việt Nam và 28 nước thành viên EU. Với EVFTA, các bên trong Hiệp định thỏa thuận tách FTA này thành 2 phần, một là Hiệp định Thương mại (EVFTA), và hai là Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA).
Trong đó, các quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư trong EVFTA được quy định tại chương 3 của EVIPA và các Phụ lục 7 đến Phụ lục 13. Các tranh chấp trong EVIPA bao gồm 2 dạng: tranh chấp giữa Chính phủ với Chính phủ; tranh chấp giữa Nhà đầu tư và Chính phủ (ISDS).
Điểm nổi bật trong cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư của EVIPA đó chính là đối với tranh chấp ISDS, Nhà đầu tư có thể lựa chọn khởi động thủ tục tố tụng tại hệ thống Tòa án Đầu tư.
Một cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư hoàn toàn mới ở Việt Nam so với các FTA trước đây Việt Nam tham gia.
Tòa án đầu tư EVIPA – Hệ Thống Tòa Án Đầu Tư Thường Trực
Cơ chế giải quyết tranh chấp ISDS truyền thống mang nhiều khuyết điểm, có xu hướng bảo vệ lợi ích nhà đầu tư hơn lợi ích công cộng của nước tiếp nhận đầu tư. Điều này dẫn đến nhiều sự phản đối và những cuộc thảo luận nhằm tìm ra giải pháp cải tổ hệ thống này.
Theo đó, trên cơ sở đề xuất của EU, hệ thống Tòa đầu tư trong khuôn khổ EVIPA đã ra đời và khắc phục được nhiều nhược điểm của hệ thống ISDS truyền thống.
Cấu trúc Tòa
Cấu trúc Tòa án đầu tư EVIPA
Cấp Sơ thẩm (quy định tại Điều 3.38)
Về số lượng thành viên
Cấp Sơ thẩm được tổ chức thường trực và Ủy ban EVIPA phải chỉ định 9 thành viên ở cấp Sơ thẩm. Trong đó:
- Ba thành viên là công dân nước thành viên EU;
- Ba thành viên là công dân nước Việt Nam; và
- Ba thành viên là công dân nước thứ ba.
Tuy nhiên Ủy ban cũng có thể quyết định tăng hoặc giảm số thành viên ở cấp Sơ thẩm sao cho số thành viên là bội số của ba và việc chỉ định thêm thành viên cần phải đảm bảo sự cân bằng về quốc tịch của các thành viên này.
Về nhiệm kỳ
Nhiệm kỳ của các thành viên ở cấp Sơ thẩm là 04 năm, và chỉ được gia hạn bổ nhiệm một lần. Thế nhưng, sẽ có 5 trong số 9 người có nhiệm kỳ được chỉ định ngay sau ngày Hiệp định này có hiệu lực, việc này được thực hiện thông qua hình thức bốc thăm, theo đó nhiệm kỳ sẽ kéo dài 06 năm. Nếu có vị trí nào bị trống thì phải được lấp đầy ngay, một người được chỉ định để thay thế một người có nhiệm kỳ chưa kết thúc phải làm đến khi hết nhiệm kỳ của người tiền nhiệm.
Khi cần xét xử các vụ việc, cấp Sơ thẩm phải thành lập một hội đồng 3 thành viên, chọn ra từ các thành viên của cấp Sơ thẩm. Trong đó 1 (một) người là công dân nước thành viên Liên minh, 1 (một) người là công dân Việt Nam và 1 (một) người là công dân nước thứ ba. Và Hội đồng cấp Sơ thẩm do thành viên là công dân nước thứ ba chủ trì.
Chủ tịch và Phó Chủ tịch cấp Sơ thẩm chịu trách nhiệm với những vấn đề về tổ chức. Hai vị trí này sẽ được bốc thăm bổ nhiệm xoay vòng ngẫu nhiên trong số các thành viên là công dân của nước thứ ba và hai vị trí này có nhiệm kỳ là 02 năm. Phó Chủ tịch sẽ thay thế Chủ tịch nếu Chủ tịch vắng mặt.
Cấp Phúc thẩm (quy định tại Điều 3.39)
Về số lượng thành viên
Cấp Phúc thẩm bao gồm 06 thành viên, trong đó 02 thành viên là công dân nước thành viên Liên minh, 02 thành viên là công dân nước Việt Nam và 02 thành viên là công dân nước thứ ba.
Ủy ban EVIPA có thể quyết định tăng hoặc giảm số thành viên ở cấp Phúc thẩm sao việc chỉ định thêm thành viên này cũng đảm bảo các nguyên tắc như việc chỉ định thêm thành viên ở cấp Sơ thẩm.
Về nhiệm kỳ
Nhiệm kỳ của các thành viên cấp Phúc thẩm là 04 năm, được gia hạn bổ nhiệm một lần. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của 3 trong 6 người được chỉ định ngay sau ngày có hiệu lực của Hiệp định này, thông qua hình thức bốc thăm, kéo dài trong 06 năm. Nếu có vị trí nào bị trống thì phải được lấp đầy ngay, người được chỉ định để thay thế một người có nhiệm kỳ chưa kết thúc phải làm đến khi hết nhiệm kỳ của người tiền nhiệm.
Khi xét xử các kháng cáo, cấp Phúc thẩm cần thành lập Hội đồng 3 thành viên, chọn ra từ các thành viên cấp Phúc thẩm. Cơ cấu thành viên của Hội đồng cấp Phúc thẩm cũng tương tự như cấp Sơ thẩm.
Vấn đề bổ nhiệm, nhiệm kỳ và làm việc của Chủ tịch và Phó Chủ tịch cấp Phúc thẩm cũng tương tự như Chủ tịch và Phó Chủ tịch cấp Sơ thẩm.
Như vậy, về cơ bản, cả hai cấp của ICS đều được tổ chức thường trực, còn Hội đồng cấp Sơ thẩm và Hội đồng cấp Phúc thẩm chỉ được thành lập khi có vụ việc cần xét xử.
Việc tổ chức theo cơ chế thường trực này đảm bảo sự ổn định và nâng cao tính thống nhất trong việc giải quyết các điều khoản của EVIPA. Đây là điều tích cực, khắc phục được một nhược điểm luôn tồn tại trong các hệ thống ISDS truyền thống bởi Hội đồng trong hệ thống này chỉ được thành lập riêng biệt cho từng vụ kiện khi có yêu cầu của các bên tranh chấp, dẫn đến phán quyết trọng tài thiếu sự nhất quán và không mang tính hệ thống.
Quy trình tố tụng theo hệ thống Tòa án đầu tư
Quy trình tố tụng theo hệ thống Tòa án đầu tư
Tham vấn
Nếu tranh chấp không thể được giải quyết theo thương lượng hòa giải, để bắt đầu quá trình khởi kiện tại tòa đầu tư, EVIPA quy định nhà đầu tư trước tiên phải gửi yêu cầu tham vấn đến bên còn lại, và yêu cầu này phải đáp ứng đủ các nội dung được ghi nhận tại khoản 1 Điều 3.30 của Hiệp định này.
Cách thức tổ chức tham vấn trong tranh chấp ISDS là tổ chức thông qua truyền hình trực tuyến hoặc phương tiện khác cho nên không bắt buộc yêu cầu tham vấn phải lập thành văn bản.
Thời hạn khởi động thủ tục Tham Vấn
Theo Điều 3.30, yêu cầu tham vấn phải được gửi trong vòng:
- (i) 03 năm kể từ ngày nhà đầu tư biết hoặc phải biết về biện pháp được cho là vi phạm và thiệt hại đã xảy ra; hoặc
- (ii) trong thời hạn 02 năm kể từ ngày nhà đầu tư ngừng việc khởi kiện ra cấp sơ thẩm theo pháp luật quốc gia, nhưng tối đa không quá 07 năm kể từ ngày nhà đầu tư biết hoặc phải biết về hành vi vi phạm và thiệt hại đã xảy ra.
Ngoài ra, điểm cần lưu ý trong cơ chế ISDS về thủ tục tham vấn là không đặt ra yêu cầu về bảo mật thông tin để phù hợp với nguyên tắc minh bạch trong cơ chế tố tụng tại tòa án đầu tư.
Về việc tổ chức tham vấn và địa điểm tham vấn, Hiệp định này tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Bên cạnh đó, EVIPA cũng có quy định dự trù trong trường hợp hai bên tranh chấp không thỏa thuận thời gian tổ chức tham vấn cũng như địa điểm tham vấn tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3.30. (Trường hợp hai bên tranh chấp không có thỏa thuận, thời gian và địa điểm tổ chức tham vấn được áp dụng theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3.30).
Cụ thể:
Về địa điểm tổ chức tham vấn:
- Hà Nội nếu tham vấn liên quan đến biện pháp của Việt Nam
- Brussels nếu tham vấn liên quan đến biện pháp của Liên mình
- Thủ đô của nước thành viên Liên minh nếu yêu cầu tham vấn chỉ liên quan đến biện pháp của nước thành viên đó
Đệ trình khiếu kiện
Trong khoảng thời gian quy định tại khoản 1 Điều 3.33 (trong vòng 06 tháng kể từ ngày nộp yêu cầu tham vấn và ít nhất 03 tháng kể từ ngày gửi thông báo ý định đệ trình khiếu kiện của Nguyên Đơn như tại Khoản 1 Điều 3.32), nếu tranh chấp vẫn chưa được giải quyết thì nhà đầu tư có quyền khởi kiện lên cấp Sơ thẩm (khoản 1 Điều 3.33). Đơn khiếu kiện có thể được đệ trình theo một trong các bộ quy tắc giải quyết tranh chấp sau:
- Công ước ICSID;
- Quy tắc Phụ trợ ICSID của Ban thư ký Trung tâm Quốc tế về Giải quyết tranh chấp đầu tư, nếu các điều kiện tố tụng căn cứ điểm (i) không được áp dụng;
- Quy tắc trọng tài của UNCITRAL; hoặc
- Bất kỳ quy tắc nào khác theo thỏa thuận của các bên tranh chấp.
Trong trường hợp nhà đầu tư chưa nộp đơn khiếu kiện trong vòng 18 tháng kể từ ngày gửi yêu cầu tham vấn, nhà đầu tư được xem là rút khỏi quy trình tố tụng và không có quyền nộp đơn khiếu kiện theo cơ chế này. Tuy nhiên, Hiệp định vẫn chấp nhận gia hạn thời hạn này thông qua thỏa thuận của các bên liên quan đến tham vấn (khoản 5 Điều 3.30).
Quy trình xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
Một số nguyên tắc trong quy trình xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
Trong quá trình xét xử, theo EVIPA thì Hội đồng tài phán sẽ phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định, có thể kể đến như sau:
Nguyên tắc áp dụng pháp luật: Chương 3, Điều 3.44 (khoản 1, 2, 3) EVIPA
Mục đích quá trình làm việc của Hội đồng xét xử là nhằm xem xét xem liệu các biện pháp nêu trong đơn khiếu kiện có vi phạm các điều khoản của Chương 2 Hiệp định EVIPA như nguyên đơn cáo buộc hay không. Cơ sở pháp lý mà Hội đồng sẽ dựa vào để giải quyết gồm:
- Các điều khoản thuộc Chương 2 và các điều khoản khác (nếu có) Hiệp định EVIPA;
- Các quy tắc hoặc nguyên tắc khác của pháp luật quốc tế áp dụng giữa các Bên;
- Pháp luật quốc gia của các bên tranh chấp đối với vấn đề liên quan tới tình tiết của vụ kiện.
Nguyên tắc giải thích pháp luật: Chương 3, Điều 3.44 (khoản 4) EVIPA
Tương tự như quy định tại WTO và các Điều ước quốc tế khác, Hội đồng xét xử phải giải thích Hiệp định này phù hợp với quy tắc tập quán diễn giải công pháp quốc tế, được pháp điển hóa trong Công ước Viên về Luật điều ước năm 1969.
Nguyên tắc công khai, minh bạch:
Trái với cách tiếp cận của phương thức trọng tài thương mại tư trong các tranh chấp đầu tư quốc tế trước đây, khi mà đa phần nội dung tranh chấp vẫn được giữ bí mật và phán quyết trọng tài không được công bố rộng rãi thì nguyên tắc minh bạch lại được phản ánh rõ nét trong các thủ tục tố tụng của hệ thống toà án đầu tư quốc tế trong khuôn khổ EVIPA.
Điều 3.46 của Hiệp định EVIPA đã quy định rất cụ thể trách nhiệm cho các Bên tranh chấp phải tiến hành tố tụng minh bạch thông qua việc tuân thủ và mở rộng Bộ quy tắc minh bạch của UNCITRAL. Theo đó, gần như toàn bộ tài liệu trong quá trình tố tụng cũng như các tài liệu để tham vấn, thông báo ý định nộp đơn khởi kiện, thông báo yêu cầu bổ nhiệm các thành viên Hội đồng tài phán; các văn bản đệ trình bởi các Bên, biên bản các phiên xét xử, các lệnh, quyết định và phán quyết của Hội đồng tài phản phải được công bố công khai, trừ những thông tin được xác định phải được giữ bí mật.
Nguyên tắc về thời gian xét xử
Ngoài những nguyên tắc được quy định cụ thể ở trên thì EVIPA còn yêu cầu rất chặt chẽ về mặt thời gian của từng giai đoạn tố tụng. Điều này nhằm đảm bảo quy trình giải quyết được nhanh chóng.
Ví dụ: Nhằm tránh việc nguyên đơn kéo dài thời gian tố tụng gây tổn thất chi phí và mất thời gian của các bên, EVIPA quy định nguyên đơn sau khi đệ trình khiếu kiện nếu trong vòng 180 ngày liên tục hoặc trong một khoảng thời gian do các bên tranh chấp thỏa thuận, không thực hiện theo các thủ tục tố tụng thì sẽ sẽ được xem là đã rút đơn khiếu kiện và sau khi có lệnh ngừng tố tụng thì nguyên đơn sẽ không được quyền đệ trình khiếu kiện về vấn đề tương tự một lần nữa.
Hoặc về thủ tục kháng cáo, EVIPA quy định quy trình này không được kéo dài quá 180 ngày tính từ ngày một bên tranh chấp chính thức thông báo quyết định kháng cáo đến ngày cấp Phúc thẩm đưa ra phán quyết, trừ một số trường hợp đặc biệt, quy trình tố tụng không được kéo dài quá 270 ngày.
Xét xử sơ thẩm
Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày đệ trình khiếu kiện thì Chủ tịch cấp Sơ thẩm phải chỉ định các thành viên của Hội đồng cấp Sơ thẩm để xét xử vụ việc. Quy trình xét xử sơ thẩm sẽ tuân theo một trong các bộ quy tắc giải quyết tranh chấp được lựa chọn tại khoản 2 Điều 3.33 Hiệp định.
Trong quá trình giải quyết, tùy tình tiết vụ việc mà hội đồng có thể ra các quyết định sau:
Biện pháp bảo vệ tạm thời: Hiệp định IPA, Chương 3, Điều 3.48
Biện pháp này tương tự với khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luật tố tụng tại tòa án. Theo đó, hội đồng xét xử sơ thẩm trong những trường hợp khẩn cấp nhằm bảo vệ quyền của một bên tranh chấp hoặc đảm bảo hiệu lực và thẩm quyền xét xử của mình, có thể ra khuyến nghị áp dụng biện pháp bảo vệ tạm thời để kịp thời bảo vệ những khỏi việc bị xâm phạm.
Biện pháp bảo đảm chi phí: Hiệp định IPA, Chương 3, Điều 3.53
Trong trường hợp nhà đầu tư không đủ năng lực tài chính để chi trả phí trọng tài khi thua kiện sẽ ảnh hưởng tới nước tiếp nhận đầu tư, do đó EVIPA đã quy định cụ thể về nghĩa vụ của nguyên đơn về việc phải đảm bảo tất cả hoặc một phần chi phí nếu trong trường hợp phán quyết về chi phí không có lợi cho nguyên đơn; nếu không đảm bảo về vấn đề chi phí (trong vòng 30 ngày kể từ ngày có lệnh), Hội đồng xét xử có thể trì hoãn hoặc đình chỉ thủ tục tố tụng.
Phán quyết sơ bộ:
Sau khi xem xét kỹ các tài liệu, chứng cứ tại vụ án, Hội đồng xét xử sơ thẩm sẽ phải ra một quyết định tạm thời (provisional award) trong vòng 18 tháng kể từ ngày đệ trình khiếu kiện. Một điểm cần lưu ý đối với phán quyết của Hội đồng sơ thể là các biện pháp mà hội đồng có thể tuyên có phần bị hạn chế.
Cụ thể, theo quy định tại Điều 3.53 Hiệp định EVIPA, Tòa Đầu Tư chỉ có thể ra phán quyết buộc quốc gia vi phạm thực hiện các việc sau:
- bồi thường thiệt hại và thanh toán tiền lãi; và
- trả lại tài sản cho nhà đầu tư hoặc pháp nhân mà nhà đầu tư sở hữu hoặc kiểm soát.
Hội đồng không được quyền ra quyết định bồi thường như một biện pháp trừng phạt hoặc bãi bỏ các biện pháp có liên quan của quốc gia. Điều này là nhằm đảm bảo nguyên tắc bảo cân bằng giữa việc bảo hộ đầu tư và việc tôn trọng thẩm quyền quản lý quốc gia của các cơ quan Nhà nước, một nguyên tắc mà EVIPA xem trọng và thể hiện xuyên suốt trong tất cả các quy định của EVIPA về giải quyết tranh chấp.
Thủ tục kháng cáo và xét xử phúc thẩm
Sau khi có quyết định sơ bộ, nếu không đồng ý, các bên tranh chấp có quyền kháng cáo quyết định này trong vòng 90 ngày kể từ ngày ban hành quyết định sơ bộ.
Có 3 cơ sở để các bên có thể tiến hành kháng cáo gồm:
- Cấp Sơ thẩm có sai sót trong việc diễn giải hoặc áp dụng pháp luật hiện hành;
- Cấp Sơ thẩm rõ ràng đã có sai sót trong việc đánh giá các tình tiết, bao gồm việc đánh giá pháp luật nội địa có liên quan; hoặc
- Không thuộc 2 trường hợp trên và thỏa mãn căn cứ kháng cáo nêu tại Điều 52 của Công ước ICSID.
03 cơ sở để các bên có thể tiến hành kháng cáo
Một hội đồng phúc thẩm gồm 3 thành viên sẽ được thành lập để xem xét kháng cáo này. Nếu Hội đồng phúc thẩm xét thấy kháng cáo có căn cứ rõ ràng, hội đồng sẽ ra quyết định sửa đổi hoặc hủy bỏ toàn bộ hoặc một phần quyết định pháp lý trong phán quyết sơ bộ. Trường hợp Hội đồng sửa đổi, hủy bỏ quyết định nhưng không thể đưa ra quyết định dựa trên các tình tiết, phán quyết đã đưa ra tại cấp sơ thẩm, hội đồng phải đưa vấn đề này lại cho cấp Sơ thẩm giải quyết lại, sửa đổi bổ sung phán quyết.
Ngoài ra, ở giai đoạn này, EVIPA cũng yêu cầu bên nộp đơn kháng cáo phải thực hiện biện pháp bảo đảm, bao gồm chi phí kháng cáo, và một khoản tiền hợp lý được xác định bởi cấp Phúc thẩm sau khi xem xét các trường hợp của vụ việc.
Phán quyết cuối cùng và bảo đảm thi hành
Phán quyết cuối cùng
- Nếu không được kháng cáo trong thời gian quy định hoặc Hội đồng phúc thẩm bác bỏ kháng cáo thì phán quyết tạm thời sẽ trở thành phán quyết cuối cùng và chính thức có hiệu lực đối với các bên.
- Nếu cấp Phúc thẩm ban hành phán quyết cuối cùng sửa đổi hoặc hủy bỏ phán quyết sơ bộ thì đây sẽ là phán quyết cuối cùng và có hiệu lực đối với các bên.
- Trường hợp cấp Phúc thẩm giao lại cho cấp Sơ thẩm sửa đổi phán quyết thì hội đồng phải đưa ra phán quyết sửa đổi trong vòng 90 ngày kể từ ngày nhận phán quyết của cấp Phúc thẩm và phán quyết đó sẽ trở thành phán quyết cuối cùng sau 90 ngày kể từ ngày ban hành.
Bảo đảm thi hành
EVIPA đánh dấu mốc quan trọng khi Hiệp định này quy định khả năng thi hành ngay lập tức các phán quyết của Tòa Đầu Tư tại quốc gia thành viên mà không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước.
Căn cứ theo quy định tại Điều 3.57 của EVIPA, Phán quyết Cuối Cùng của Tòa Đầu Tư sẽ có hiệu lực ràng buộc mỗi Bên của Hiệp định cam kết công nhận và cho thi hành phán quyết đó trên lãnh thổ của mình như bản án của tòa án quốc gia và sẽ không bị kháng cáo, xét lại, hủy bỏ, bãi bỏ hoặc chịu bất kỳ biện pháp nào khác.
Tuy nhiên, kể từ thời điểm EVIPA chính thức có hiệu lực vào ngày 01/08/2020, Việt Nam đang bảo lưu việc áp dụng quy định Điều 3.57 đối với các phán quyết cuối cùng mà Việt Nam là bị đơn trong vòng 5 năm. Phù hợp với nội dung bảo lưu, ngày 18/06/2020 Nghị quyết 113/2020/QH14 chính thức được thông qua, theo đó:
Phán quyết Cuối Cùng được ban hành trong vòng 05 năm kể từ ngày 01/08/2020 mà Việt Nam là bị đơn được xem như Phán quyết Trọng tài nước ngoài và phải trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành áp dụng theo Công ước New York 1958. Điều này đồng nghĩa với việc, trong khoảng thời gian 5 năm này, Tòa án của Việt Nam vẫn có thể xem xét hủy phán quyết của tòa.
Phán quyết Cuối Cùng được ban hành sau thời hạn bảo lưu 05 năm mà Việt Nam là bị đơn được công nhận hiệu lực ngay như phán quyết của Tòa án Việt Nam.
Ưu điểm và nhược điểm của cơ chế GQTC bằng Tòa án Đầu tư
Ưu điểm
Ưu điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Tòa án Đầu tư
Có thể thấy cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA đã phần nào khắc phục khá hiệu quả các nhược điểm của cơ chế ISDS truyền thống trước đây, cụ thể:
Thứ nhất, Hiệp định xây dựng cơ chế Hệ thống tòa đầu tư thường trực với 2 cấp xét xử.
Điều này đã giúp cho việc chỉnh sửa, xem xét cũng như rà soát lại các phán quyết của Trọng tài trước đây khi mà theo cơ chế ISDS truyền thống thì phán quyết của Trọng tài là phán quyết chung thẩm và không thể bị sửa đổi. Trong khi đó với cơ chế Tòa thường trực thì EVIPA cho phép Tòa phúc thẩm được xem xét, sửa đổi và thậm chí là lật ngược lại các quyết định của Tòa sơ thẩm khi có yêu cầu xem xét từ các bên.
Thứ hai, quy định về tính minh bạch hóa.
Theo cơ chế Trọng tài trước đây thì tất cả các tài liệu, phán quyết đều được giữ bí mật theo nguyện vọng của các bên tranh chấp nhưng theo cơ chế của EVIPA thì yêu cầu về tính minh bạch trong quy trình tố tụng là một nghĩa vụ bắt buộc được quy định cụ thể tại Điều 3.46. Theo đó hầu như toàn bộ tài liệu của quá trình tố tụng sẽ được công bố công khai. Điều này không chỉ đảm bảo được tính công bằng, minh bạch trong tố tụng mà còn là một trong những cơ sở quan trọng để các nhà đầu tư đi đến quyết định có hay không khởi động một vụ tranh chấp với quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Thứ ba, các quy định nhằm hạn chế khiếu kiện.
Việc áp dụng cơ chế ISDS truyền thống đã khiến cho các nhà đầu tư lạm dụng các hiệp định đầu tư gây ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng của quốc gia như môi trường, sức khỏe cộng đồng khi mà các phán quyết giải quyết tranh chấp đều được cho là có lợi hơn với nhà đầu tư.
Do đó mà EVIPA đã quy định những vấn đề nhằm hạn chế việc lạm dụng từ nhà đầu tư như nghiêm cấm lựa chọn nhiều cơ chế tài phán cùng một lúc, hạn chế khởi kiện song song ở Tòa EVIPA với trọng tài quốc tế (khoản 1 Điều 3.34 EVIPA) cũng như các quy định sàng lọc các khiếu kiện để từ chối tiếp nhận những đệ trình khởi kiện không có căn cứ (Điều 3.43, Điều 3.45 EVIPA).
Thứ tư, quy định về bên thứ ba.
Bên thứ ba trong tố tụng tại ICS được hiểu bao gồm: Bên thứ ba không tranh chấp; và Bên tài trợ, cung cấp kinh phí cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Theo quy định tại điểm e Điều 3.28 về định nghĩa “bên không tranh chấp” thì các bên không tranh chấp trong mọi trường hợp chính là các bên ký kết, có thể là một quốc gia hay một tổ chức liên chính phủ, và việc khởi kiện của nhà đầu tư có thể ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể này kể cả khi không tham gia vào vụ tranh chấp đó. Vì vậy, tại Điều 3.51 EVIPA đã thiết lập những yêu cầu nhất định cho bị đơn cung cấp các thông tin liên quan đến vụ tranh chấp cho bên không tranh chấp.
Bên cạnh đó một chủ thể khác cũng được EVIPA xem là bên thứ ba, đó là bên tài trợ, cung cấp kinh phí cho quá trình giải quyết tranh chấp. Theo điểm i Điều 3.28 thì “tài trợ từ bên thứ ba” (Third party funding – TPF) là mọi khoản tài trợ được cung cấp bởi một thể nhân hay một pháp nhân mà họ không phải là một bên tranh chấp nhưng mong muốn tham gia vào một thỏa thuận với một bên tranh chấp về việc cung cấp tài chính một phần hoặc tất cả chi phí tố tụng, để đổi lại một lợi ích khác từ kết quả của vụ tranh chấp. Việc công nhận TPF phần nào hỗ trợ các nhà đầu tư đảm bảo được vấn đề tài chính khi theo đuổi các vụ kiện về đầu tư khi mà các chi phí của dạng tranh chấp này không phải một con số nhỏ.
Nhược điểm
Nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Tòa án Đầu tư
Tuy được đánh giá là đã khắc phục được nhiều điểm lỗi thời của cơ chế ISDS truyền thống thế nhưng Hệ thống tòa thường trực của EVIPA cũng được cho là vẫn bộc lộ nhiều nhược điểm.
Đầu tiên, lo ngại về năng lực chuyên môn và kinh nghiệm của thành viên Hội đồng được Chính phủ chỉ định, đặc biệt là đối với Việt Nam.
Bởi vì EVIPA không có điều khoản nào quy định cụ thể về các tiêu chí để lựa chọn thành viên Hội đồng mà chuyển qua cho Chính phủ của các bên đánh giá và lựa chọn. Điều này có thể gây ra sự chênh lệch về năng lực giữa các thành viên trong Hội đồng với nhau khi mà đặt trên bình diện với EU thì Việt Nam vẫn bị yếu thế hơn trong lĩnh vực luật và thương mại quốc tế.
Lạm dụng cơ chế TPF
Mặc dù ở trên thì quy định này được xem là một ưu điểm của cơ chế mới nhưng trên thực tế tài trợ TPF lại đang tồn tại như một ngành công nghiệp và nó vô tình là một trong các nguyên nhân khuyến khích các nhà đầu tư khởi kiện quốc gia tiếp nhận đầu tư, gây tác động rất lớn đến những quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Tải bản PDF của bài viết tại đây: [PDF] Newsletter_ Giải Quyết Tranh Chấp Đầu Tư thông qua Tòa án Đầu tư trong EVIPA
Phụ Trách
![]() |
Trợ lý Luật sư Kiều Nữ Mỹ Hảo
Điện thoại: (84) 028 6276 9900 Email: hao.kieu@cnccounsel.com |
liên hệ
Công ty Luật TNHH CNC Việt Nam
CNC© | A Boutique Property Law Firm
The Sun Avenue, 28 Mai Chí Thọ, Phường An Phú, Quận 2,
Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam
T: (+84-28) 6276 9900 | H/L: (+84) 916 545 618
cnccounsel.com | contact@cnccounsel.com