Phân biệt thẩm quyền và khả năng chấp nhận trong Trọng tài quốc tế
Việc phân biệt thẩm quyền và khả năng chấp nhận trong Trọng tài quốc tế là một vấn đề gây nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử trọng tài hiện nay khi các điều khoản giải quyết tranh chấp đa tầng đang ngày càng trở nên phổ biến. Việc phân định tuy không dễ dàng nhưng lại có tầm quan trọng rất lớn vì sự ảnh hưởng đến hiệu lực của phán quyết Trọng tài cũng như kỳ vọng của các bên về tranh chấp được giải quyết một cách công bằng và minh bạch. Bài viết này sẽ làm rõ cơ sở xác định thẩm quyền và khả năng chấp nhận trong Trọng tài, hậu quả pháp lý cơ bản khi phân định giữa thẩm quyền và khả năng chấp nhận trongTrọng tài cũng như đề cập đến sự khác nhau trong việc phân định hai vấn đề này giữa các quốc gia.
Khái niệm
Thẩm quyền của Trọng tài (Jurisdiction)
Thẩm quyền của Trọng tài có thể được hiểu là quyền của Hội đồng Trọng tài được đưa ra phán quyết ảnh hưởng đến nội dung của vụ việc.[1] Cơ sở để hình thành thẩm quyền của Trọng tài xuất phát từ ý chí của các bên. Nếu các bên không có thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài thì trọng tài sẽ không mặc nhiên được áp dụng để giải quyết tranh chấp.[2] Bên cạnh đó, thẩm quyền của Trọng tài cũng bị chi phối ở một số khía cạnh được quy định bởi pháp luật liên quan đến thỏa thuận trọng tài, pháp luật nơi tiến hành trọng tài.[3]
Khả năng chấp nhận (Admissibility)
Khả năng chấp nhận có thể được hiểu là tính phù hợp của yêu cầu giải quyết bằng trọng tài để trọng tài thực hiện quyền tài phán của mình,[4] theo đó thường được thể hiện qua các điều khoản trọng tài đa tầng được thỏa thuận giữa các bên như yêu cầu hòa giải, thương lượng trước khi tranh chấp được đưa ra giải quyết tại Trọng tài,… Khả năng chấp nhận là vấn đề liên quan đến việc xem xét yêu cầu khởi kiện có hợp lệ hay không, chẳng hạn như nếu Nguyên đơn không cố gắng giải quyết tranh chấp theo phương thức hòa giải trước khi khởi kiện ra Trọng tài như được nêu trong điều khoản đa tầng thì yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn có được chấp nhận hay không.[5]
Sự khác nhau trong việc phân định giữa các quốc gia
Việc xác định giữa thẩm quyền của Trọng tài và khả năng chấp nhận giữa các quốc gia hiện nay là không giống nhau. Cụ thể, một số quốc gia xem tính phù hợp của yêu cầu giải quyết bằng trọng tài là khả năng chấp nhận, tách biệt hoàn toàn với các điều kiện xác định thẩm quyền của Trọng tài và do đó không ảnh hưởng đến thẩm quyền của Trọng tài, điển hình như các nước Pháp, Anh, Hồng Kông. Trong vụ tranh chấp C v D [2022] 3 HKLRD 116, Tòa án tối cao Hồng Kông đã xem việc Hội đồng Trọng tài giải quyết các vấn đề liên quan đến tính phù hợp của yêu cầu giải quyết bằng trọng tài là các vấn đề về khả năng chấp nhận. Do đó dù các bên trong vụ tranh chấp không đàm phán trên tinh thần thiện chí trước khi khởi kiện ra Trọng tài như đã thỏa thuận, Tòa án vẫn không xem xét yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài của Nguyên đơn vì quyết định của Hội đồng Trọng tài về khả năng chấp nhận là quyết định cuối cùng.[6]
Ngược lại, một số quốc gia xem tính phù hợp của yêu cầu giải quyết bằng trọng tài là một trong những điều kiện xác định thẩm quyền của Trọng tài, nếu các bên chưa thực hiện xong các bước trước khi đưa tranh chấp ra Trọng tài như đã thỏa thuận trong các điều khoản đa tầng sẽ dẫn đến Hội đồng Trọng tài không có thẩm quyền xử lý vụ tranh chấp. Như trong vụ kiện X Ltd v Y SpA, 4A_628/2015, Tòa án tối cao Thụy Sỹ đã nhận định rằng quyết định về việc liệu Hội đồng Trọng tài có thể tiếp tục giải quyết tranh chấp trong trường hợp có sự vi phạm các bước trong điều khoản giải quyết tranh chấp đa tầng là một quyết định về thẩm quyền.[7]
Theo LTTTM, việc xác định thẩm quyền của Trọng tài được thực hiện dựa trên các tiêu chí bao gồm đối tượng hoặc chủ thể của vụ tranh chấp: “Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại” và thỏa thuận trọng tài: “Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận Trọng tài”, không bao gồm các thủ tục tiền tố tụng.[8] Vì không được quy định nên tại Việt Nam, những vấn đề liên quan đến khả năng chấp nhận còn chưa rõ ràng và gây gây ra nhiều tranh cãi.
Xác định thẩm quyền của Trọng tài và khả năng chấp nhận
Cơ sở xác định thẩm quyền của Trọng tài
Việc xác định thẩm quyền của Trọng tài có sự khác nhau theo pháp luật về trọng tài ở từng quốc gia. Trong đó, một số tiêu chí cơ bản để xác định có thể được kể đến như sau:
(i) Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực phải đáp ứng những tiêu chí cơ bản như được giao kết dựa trên tinh thần tự nguyện của các bên và các bên giao kết có thẩm quyền, được xác lập dưới dạng văn bản và tồn tại như một điều khoản trong hợp đồng hoặc một thỏa thuận riêng biệt, vấn đề tranh chấp được các bên thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài phải rõ ràng, có thể xác định được cũng như phải có trọng tài tính (arbitrability).
(ii) Nội dung chính của vụ tranh chấp
Sau khi xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, Hội đồng Trọng tài cần phải xác định yêu cầu giải quyết tranh chấp mà các bên đưa ra có thuộc phạm vi các tranh chấp đã được thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài hay không. Trong trường hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản trong hợp đồng, yêu cầu của các bên liên quan đến các vấn đề trong hợp đồng mặc nhiên thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài.[9]
Cơ sở xác định thẩm quyền của trọng tài
Một số nhân tố phổ biến ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận
Khác với thẩm quyền của Trọng tài có thể bị chi phối bởi pháp luật mà theo đó thẩm quyền đang được xem xét, điều kiện thụ lý hoàn toàn được xác định bởi ý chí chủ quan của Hội đồng Trọng tài và do đó không thể rút ra các nguyên tắc cơ bản trong vấn đề này. Tuy nhiên, dựa trên thực tiễn xét xử của nhiều quốc gia trên thế giới thì tính rõ ràng của các điều khoản tranh chấp đa tầng thường đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Hội đồng Trọng tài đưa ra quyết định. Cụ thể, nếu các bên thỏa thuận rõ ràng các bước như thương lượng hay hòa giải là bắt buộc trước khi đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài, Hội đồng Trọng tài sẽ có cơ sở để ràng buộc các bên thực hiện các thủ tục này trước khi tiến hành giải quyết tranh chấp.[10]
Hậu quả pháp lý của việc xác định thẩm quyền Trọng tài và khả năng chấp nhận
Hậu quả pháp lý sau khi xác định thẩm quyền của trọng tài
Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của Trọng tài thương mại quốc tế là nguyên tắc “competence – competence”, theo đó Hội đồng Trọng tài có thể tự quyết định thẩm quyền của mình. Nguyên tắc này cũng được thể hiện qua Điều 43(1) của luật Trọng tài Thương mại 2010 (Sau đây gọi là “LTTTM”): “Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không và xem xét thẩm quyền của mình”. Việc xem xét hiệu lực của thỏa thuận Trọng tài được dựa trên nguyên tắc “separability”, nghĩa là xem xét thỏa thuận Trọng tài như một một hợp đồng riêng biệt, tách rời khỏi hợp đồng chính hoặc thỏa thuận mà nó tồn tại như một điều khoản.[11] Quyết định về thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài không phải là quyết định cuối cùng, hay nói cách khác có thể bị vô hiệu hóa bởi một bên thứ ba,[12] thông thường là Tòa án nơi đặt địa điểm trọng tài (seat of arbitration). Điều này là bởi suy cho cùng, quyền lực của Hội đồng Trọng tài đến từ ý chí của các bên được thể hiện qua thỏa thuận trọng tài cũng như pháp luật trọng tài tùy vào nơi trọng tài được tiến hành. Cụ thể như sau:
(i) Thẩm quyền của Trọng tài có thể bị phản đối bởi một trong các bên của vụ tranh chấp và Hội đồng Trọng tài có nghĩa vụ xem xét lại thẩm quyền của mình. Việc các bên có quyền phản đối thẩm quyền của Trọng tài cũng thể hiện tinh thần của nguyên tắc “competence-competence”, bởi nguyên tắc này được đặt ra nhằm mục đích giảm thiểu sự gián đoạn trong quá trình tố tụng trọng tài nhưng không vì thế mà làm mất đi quyền phản đối thẩm quyền Trọng tài của các bên nếu có lý do chính đáng[13]. Vấn đề này cũng được cụ thể hóa qua Điều 43(2) LTTTM: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu phát hiện Hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền, các bên có thể khiếu nại với Hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm xem xét, quyết định”
(ii) Tòa án là chủ thể có thẩm quyền đưa ra quyết định cuối cùng về thẩm quyền của Trọng tài, nếu Tòa án không công nhận thỏa thuận trọng tài thì Tòa án thay vì Trọng tài sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.[14]
Đối với vấn đề khả năng chấp nhận, Hội đồng Trọng tài có quyền quyết định vụ việc có đủ điều kiện thụ lý hay không và quyết định của Hội đồng Trọng tài là quyết định cuối cùng. Nguyên nhân vì việc xác định khả năng chấp nhận được thực hiện trong phạm vi thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, do đó chỉ xảy ra sau khi Hội đồng Trọng tài đã xác định vụ việc thuộc thẩm quyền của mình.[15] Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng cho việc Hội đồng Trọng tài là chủ thể có quyền xem xét về khả năng chấp nhận mặc dù theo thực tiễn xét xử, hầu hết các hội đồng trọng tài đều tự mình xem xét.[16]
Thẩm quyền xem xét vấn đề về thẩm quyền và khả năng chấp nhận
Nguyên tắc res judicata
Nguyên tắc res judicata chỉ ra rằng nếu một vụ kiện đã có phán quyết được ban hành bởi một cơ quan xét xử có thẩm quyền thì phán quyết này có hiệu lực ràng buộc đối với các bên và do đó các bên không có quyền đưa vụ việc ra kiện lại nếu không có sự thay đổi về mặt chủ thể tranh chấp, vấn đề tranh chấp và cơ sở pháp lý (triple-identity criteria).[17]
Trong thực tiễn xét xử trọng tài, nguyên tắc này được áp dụng khác nhau khi liên quan đến vấn đề thẩm quyền của Trọng tài và khả năng chấp nhận. Cụ thể, khi Hội đồng Trọng tài quyết định vụ việc không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, quyết định này sẽ mang tính res judicata. Mặt khác, quyết định vụ việc không có khả năng chấp nhận sẽ không mang tính res judicata và có thể thay đổi khi các thủ tục tiền tố tụng không còn là rào cản[18], chẳng hạn như khi thời gian chờ (waiting period) đã hết hoặc các biện pháp khắc phục nội bộ (local remedies) đã được thực hiện. Một trong những án lệ nổi bật trong lĩnh vực trọng tài đầu tư thể hiện rõ ràng nguyên tắc này là Án lệ Abaclat v. Argentina,[19] theo đó Hội đồng Trọng tài đã kết luận rằng quyết định cuối cùng về việc từ chối thụ lý vụ việc vì Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền sẽ ngăn cản các bên nộp lại cùng một yêu cầu cho cùng một cơ quan, trong khi quyết định từ chối thụ lý dựa trên khả năng chấp nhận, về nguyên tắc, sẽ không ngăn cản bên nộp lại yêu cầu của mình miễn là khắc phục được những vấn đề trước đó gây ra tình trạng không thể thụ lý.[20]
Phân định tính chất của thẩm quyền và khả năng chấp nhận
Kết luận
Thẩm quyền và khả năng chấp nhận trong Trọng tài được xác định tùy vào pháp luật của mỗi quốc gia. Theo pháp luật Việt Nam, khả năng chấp nhận vẫn chưa được quy định và do đó gây ra nhiều tranh cãi cũng như bất cập trong thực tiễn xét xử. Hậu quả pháp lý rõ rệt nhất của việc phân định là thẩm quyền đưa ra quyết định cuối cùng thuộc về Hội đồng Trọng tài hay Tòa án và do đó, đây là vấn đề cần được làm rõ trước khi vụ việc được chính thức giải quyết bằng Trọng tài để giảm thiểu nguy cơ phán quyết Trọng tài bị hủy sau này.
Phụ trách:
![]() |
Trần Phạm Hoàng Tùng I Luật sư Thành viên
Điện thoại: (84) 901 334 192 Email: tung.tran@cnccounsel.com |
![]() |
Phạm Ngọc Thanh Trà I Cộng tác viên
Điện thoại: (84) 347 924 900 |
[1] Andrew Tweeddale (2021), ‘Jurisdiction and admissibility in dispute resolution clauses’, Construction Law International, 16 (1), 13 – 17, <Jurisdiction and admissibility in dispute resolution clauses | International Bar Association> truy cập ngày 29/5/2025
[2] Nigel Blackaby, Constatine Partasides QC, Alan Redfern, Martin Hunter, Redfern and Hunter on International Arbitration (Sixth Edition), Oxford University (2015), paragraph 5.91
[3] Nigel Blackaby, Constatine Partasides QC, Alan Redfern, Martin Hunter, tlđd, paragraph 3.37 – 3.48
[4] August Reinisch, ‘Jurisdiction and Admissibility in International Investment Law’, Jurisdiction and Admissibility in International Investment Law, 2, <https://icsid.worldbank.org/sites/default/files/parties_publications/C8394/Claimants’%20documents/CL%20-%20Exhibits/CL-0454.pdf > truy cập ngày 01/7/2025
[5] Nguyễn Mạnh Tuấn (2023), ‘Thẩm quyền quyết định hiệu lực thi hành của thỏa thuận tiền tố tụng trọng tài’, Tạp chí Tòa án nhân dân, <https://tapchitoaan.vn/tham-quyen-quyet-dinh-hieu-luc-thi-hanh-cua-thoa-thuan-tien-to-tung-trong-tai9880.html> truy cập ngày 10/12/2024
[6] Dantes Leung, Davis Hui (2023), ‘Making Sense of Jurisdiction-Admissibility Distinction: When Day Becomes Night’, Hong Kong Lawyer, <https://www.hk-lawyer.org/content/making-sense-jurisdiction-admissibility-distinction-when-day-becomes-night> truy cập ngày 29/5/2025
[7] Tlđd
[8] Điều 2(1) Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP về việc Hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài Thương mại
[9] Dena Givari (2024), ‘Commercial Litigation Insights: A Framework for Arbitrators to Determine Jurisdiction’, WeirFoulds LLP <https://www.weirfoulds.com/commercial-litigation-insights-a-framework-for-arbitrators-to-determine-jurisdiction> truy cập ngày 29/5/2025
[10] Kevin Cheung (2022), ‘Pre-conditions to arbitration: admissibility v jurisdiction approaches from England and Hong Kong’, Thomson Reuters, <http://arbitrationblog.practicallaw.com/pre-conditions-to-arbitration-admissibility-v-jurisdiction-approaches-from-england-and-hong-kong/> truy cập ngày 29/5/2025
[11] Doug Jones (2009), ‘Competence – Competence’, 75 Arbitration 56 – 64, 56 – 57, <https://dougjones.info/content/uploads/2023/04/460-Competence-Competence.pdf> truy cập ngày 29/5/2025
[12] Jan Paulsson (2005), ‘ Jurisdiction and Admissibility’, Global Reflections on International Law, Commerce and Dispute Resolution, 693, 601, <https://cdn.arbitration-icca.org/s3fs-public/document/media_document/media012254599444060jasp_article_-_jurisdiction_and_admissibility_-_liber_amicorum_robert_briner.pdf> truy cập ngày 29/5/2025
[13] Doug Jones, Tlđd
[14] Điều 2(3)(a) Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP
[15] Jan Paulsson, Tlđd, 601 – 604
[16] Kevin Cheung, Tlđd
[17] ‘Res Judicata in International Arbitration’ Aceris Ris LLC, <https://www.acerislaw.com/res-judicata-in-international-arbitration/> truy cập ngày 29/5/2025
[18] Andrew Tweeddale, Tlđd
[19] Simranjit Kaur (2020), ‘The Distinction between Jurisdiction and
Admissibility in International Investment Law’, Master Programme in Investment Treaty Arbitration
Master’s Thesis 15 ECTS, 28 – 29, <https://www.diva-portal.org/smash/get/diva2:1436202/FULLTEXT01.pdf> truy cập ngày 01/12/2024
[20] “whereby a final refusal based on a lack of jurisdiction will prevent the parties from successfully re-submitting the same claim to the same body, a refusal based on admissibility will, in principle, not prevent the claimant from re-submitting its claim, provided it cures the previous flaw causing the inadmissibility”