Thỏa thuận trọng tài
Luật Trọng tài thương mại 2010 định nghĩa tại khoản 2 Điều 3 rằng “thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài mà Việt Nam là quốc gia thành viên cũng gián tiếp định nghĩa thỏa thuận trọng tài tại Điều II(1) là “thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên cam kết đưa ra trọng tài để giải quyết mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không, về vấn đề tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài”.
Tải file PDF của bài viết tại đây: [PDF] Newsletter_Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài
Định nghĩa “thỏa thuận trọng tài” theo Công ước New York 1958 và Luật Trọng tài thương mại 2010
Thoạt nhìn, nội hàm của định nghĩa trong Công ước New York 1958 có vẻ rộng hơn so với Luật Trọng tài thương mại 2010. Cụ thể, thỏa thuận trọng tài theo Luật này được định nghĩa là một thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể phát sinh hoặc đã phát sinh. Tuy nhiên, khác với Công ước New York 1958, định nghĩa này lại không nêu rõ “tranh chấp” này là tranh chấp về quan hệ pháp lý nào. Phần lớn các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài là những tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng, vậy một câu hỏi đặt ra là liệu trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ ngoài hợp đồng hay không?
Sổ tay về trọng tài và hòa giải của Tòa án nhân dân tối cao có nội dung hướng dẫn như sau: “Theo tinh thần Đ.2(1) LTTTM, không thể giải quyết bằng trọng tài đối với khiếu nại bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trừ khi luật chuyên ngành cho phép…”.[1] Theo hướng dẫn này, trọng tài không có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp phát sinh từ quan hệ ngoài hợp đồng, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Sổ tay hướng dẫn này chỉ có giá trị tham khảo cho các Tòa án trong nước.[2]
Mặt khác, trong một quyết định về việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, Hội đồng xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã gián tiếp từ chối áp dụng nội dung hướng dẫn của Sổ tay và nhận định trọng tài hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp phát sinh từ quan hệ ngoài hợp đồng, nếu các bên có thỏa thuận trọng tài đối với loại tranh chấp này.[3]
Như vậy, thực tiễn xét xử có xu hướng chấp nhận thẩm quyền của trọng tài đối với tranh chấp phát sinh từ quan hệ không phải hợp đồng, nếu đáp ứng quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010 về Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài. Nói cách khác, tương đồng với định nghĩa theo Công ước New York 1958, “thỏa thuận trọng tài” theo Luật Trọng tài thương mại 2010 được định nghĩa là (i) thỏa thuận (ii) về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (iii) có thể phát sinh hoặc đã phát sinh ((iv) từ quan hệ hợp đồng hoặc quan hệ không phải hợp đồng).
Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng, mặc cho thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng hay là một thỏa thuận riêng biệt với hợp đồng. Điều này được ghi nhận trong pháp luật trọng tài đương đại như một nguyên tắc pháp lý phổ quát (nguyên tắc separability).
Cụ thể, về cấp độ quốc tế, Luật Mẫu UNCITRAL về Trọng tài Thương mại Quốc tế có nêu tại Điều 16.1 rằng: “Hội đồng trọng tài có thẩm quyền xem xét thẩm quyền của chính mình, ngay cả khi có khiếu nại về sự tồn tại hay hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Vì lẽ đó, một điều khoản trọng tài nằm trong hợp đồng sẽ được coi là thỏa thuận độc lập với các điều khoản còn lại trong hợp đồng. Việc Hội đồng trọng tài tuyên bố hợp đồng không có hiệu lực không đương nhiên dẫn đến thỏa thuận trọng tài cũng không có hiệu lực”.
Dưới góc độ pháp luật Việt Nam, Điều 19 Luật Trọng tài thương mại 2010 cũng khẳng định “thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng”.
Bên cạnh các văn bản pháp lý nêu trên, các quy tắc tố tụng trọng tài của các định chế trọng tài lớn trên thế giới cũng khẳng định nguyên tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài, đơn cử như: Quy tắc UNCITRAL 2021 (Điều 23.1), Quy tắc ICC 2021 (Điều 6.9), Quy tắc LCIA 2020 (Điều 23.2), Quy tắc SIAC 2016 (Điều 28.2) hay Quy tắc VIAC 2017 (Điều 28.1).
Sự ghi nhận nguyên tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài trong các văn bản pháp lý
Sự ghi nhận nguyên tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài trong các quy tắc tố tụng trọng tài
Sở dĩ nguyên tắc này được hình thành dựa trên thực tế phần lớn các thỏa thuận trọng tài được tích hợp thành một điều khoản của hợp đồng chính và điều khoản này là cơ sở duy nhất để các bên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Trong khi đó, các bên thường cần đến thỏa thuận trọng tài nhất khi một bên có hành vi vi phạm hợp đồng hay có khiếu nại cho rằng hợp đồng vô hiệu.[4] Nếu số phận của thỏa thuận trọng tài gắn liền với hiệu lực hợp đồng chính, thì các thỏa thuận trọng tài đó sẽ bị chấm dứt hoặc bị vô hiệu cùng với hợp đồng chính, từ đó các tranh chấp sẽ không được giải quyết và thỏa thuận trọng tài sẽ không còn ý nghĩa như bản chất vốn có của nó. Để giải quyết thực trạng không mong muốn này, nguyên tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài dần được công nhận một cách phổ quát nhằm đảm bảo mục đích giải quyết tranh chấp của loại thỏa thuận này, bất kể hiệu lực của hợp đồng chính có ra sao.
Nguyên tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài cũng nhằm để đảm bảo một nguyên tắc khác của tố tụng trọng tài, đó là nguyên tắc “tự xác định thẩm quyền của hội đồng trọng tài (competence-competence)”. Với nguyên tắc này, hội đồng trọng tài có thẩm quyền tự quyết định thẩm quyền của chính mình thông qua việc xem xét sự tồn tại hay hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, và đương nhiên, việc xem xét này hoàn toàn không phụ thuộc vào sự tồn tại hay hiệu lực của hợp đồng chính có thỏa thuận trọng tài đó.
Quan hệ giữa nguyên tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài (separability) và nguyên tắc tự xác định thẩm quyền của hội đồng trọng tài (competence-competence)
Nội dung của nguyên tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài
Vấn đề đặt ra tiếp theo là tính độc lập này cần được hiểu như thế nào?
Nội dung của tính độc lập của thỏa thuận trọng tài
Hiệu lực của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Điều 19 Luật Trọng tài thương mại 2010 về Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài khẳng định rõ ràng rằng “việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài”. Nói cách khác, một bên trong tranh chấp không được viện dẫn đơn thuần lý do “hợp đồng không có hiệu lực hay tồn tại” để phủ nhận hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng đó. Nguyên tắc này được các Tòa án Việt Nam tôn trọng một cách triệt để.[5] Về mặt khoa học pháp lý, nguyên tắc này được hình thành dựa trên nền tảng lý luận rằng thỏa thuận trọng tài tồn tại là để xử lý số phận của hợp đồng chính nên nếu để thỏa thuận trọng tài cùng số phận với hợp đồng sẽ làm cho thỏa thuận trọng tài không còn ý nghĩa.[6]
Nội dung này có thể nói là nội dung cơ bản nhất của nguyên tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài, và được ghi nhận trong pháp luật trọng tài của hầu hết các quốc gia là thành viên của Công ước New York 1958.
Đơn cử như pháp luật Singapore, Điều 21(3) Đạo luật Trọng tài 2001 và Điều 16(1) Đạo luật Trọng tài Quốc tế 1994 của Singapore đã dựa trên Điều 16.1 của Luật Mẫu UNCITRAL để quy định rằng “việc Hội đồng trọng tài tuyên bố hợp đồng không có hiệu lực không đương nhiên dẫn đến thỏa thuận trọng tài cũng không có hiệu lực”. Hay trong pháp luật Anh, Điều 7 của Đạo luật Trọng tài Anh 1996 cũng nêu “thỏa thuận trọng tài sẽ không bị coi là vô hiệu, không tồn tại hay không có hiệu lực vì lý do hợp đồng của thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu, không tồn tại hay không có hiệu lực”.
Hoặc xét đến pháp luật Hoa Kỳ, Đạo luật Trọng tài Liên bang 1925 của nước này không ghi nhận rõ ràng quy tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài. Thay vào đó, quy tắc này lại được Tòa án tối cao Hoa Kỳ ghi nhận lần đầu tiên trong án lệ Prima Paint Corp. v. Flood & Conklin Mfg. Co. được ban hành vào năm 1967.[7] [8] Trong một án lệ khác sau này, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã khẳng định lại quy tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài được thiết lập từ án lệ Prima Paint Corp. v. Flood & Conklin Mfg. Co. như sau: “…Quy tắc từ vụ Prima Paint cho phép tòa án thực thi thỏa thuận trọng tài của hợp đồng chính mà hợp đồng chính này được hội đồng trọng tài sau đó xác định là không có hiệu lực…”.[9] Với những án lệ này, có thể thấy pháp luật Hoa Kỳ hoàn toàn ghi nhận quy tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài mà trong đó, hiệu lực của hợp đồng chính không ảnh hưởng đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài của hợp đồng chính đó.
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng
Quy định về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài tại Điều 19 Luật Trọng tài thương mại 2010 không đề cập đến tác động của thỏa thuận trọng tài đối với hiệu lực của hợp đồng. Việc này đặt ra câu hỏi rằng liệu thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực có dẫn đến hợp đồng không có hiệu lực hay không? Đây là câu hỏi tương đối quan trọng dù ít khi được chú ý khi đề cập đến vấn đề tính độc lập của thỏa thuận trọng tài.
Xét về ngữ nghĩa của nguyên tắc “độc lập của thỏa thuận trọng tài”, “độc lập” ở đây cần được hiểu là thỏa thuận trọng tài và hợp đồng hoàn toàn độc lập “với nhau”. Tức là (i) thỏa thuận trọng tài không bị ảnh hưởng bởi hợp đồng, và ngược lại, (ii) hợp đồng cũng không bị ảnh hưởng bởi thỏa thuận trọng tài. Nếu tính độc lập của thỏa thuận trọng tài chỉ được hiểu theo vế (i) mà không kèm theo vế (ii), thì nguyên tắc nói trên sẽ không đảm bảo đúng ý nghĩa vốn có của nó.
Mặt khác, dù Luật Mẫu UNCITRAL hay Luật Trọng tài thương mại 2010 không đề cập đến ảnh hưởng của thỏa thuận trọng tài đối với hiệu lực của hợp đồng, nhưng Bộ luật Dân sự 2015 lại có câu trả lời gián tiếp về vấn đề này. Cụ thể, áp dụng Điều 130 và Điều 407 của Bộ luật này về “hợp đồng vô hiệu từng phần”, thỏa thuận trọng tài được coi là một phần nội dung của hợp đồng chính và việc phần nội dung này bị vô hiệu không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của hợp đồng chính.
Cách diễn giải này cũng phù hợp với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước theo hệ thống Thông luật như Anh, Hoa Kỳ, Singapore. Bởi lẽ, quy tắc “hợp đồng vô hiệu từng phần” không chỉ được khẳng định trong Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam mà còn là quy tắc có tính thông lệ trong pháp luật hợp đồng của các nước Thông luật với tên gọi “học thuyết bút chì xanh (Doctrine of Blue Pencil)”.[10] [11]
Tóm lại, theo pháp luật Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế, hiệu lực thỏa thuận trọng tài “không bị ảnh hướng bởi” cũng như “không ảnh hưởng đến” hiệu lực của hợp đồng có thỏa thuận trọng tài đó.
Độc lập về “pháp luật điều chỉnh”
Bên cạnh sự độc lập về hiệu lực, sự độc lập về pháp luật điều chỉnh cũng là một nội dung quan trọng về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài. Trong đó, luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài hoàn toàn có thể khác với luật điều chỉnh hợp đồng. Điều này thường xảy ra đối với những tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Trong đa số trường hợp, các bên trong tranh chấp có yếu tố nước ngoài thường không có lựa chọn minh thị về pháp luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng. Các bên có thể có thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng, nhưng không nêu rõ là luật đó cũng được áp dụng cho thỏa thuận trọng tài hay không. Đối với những trường hợp như vậy, thực tiễn trọng tài quốc tế cho thấy pháp luật điều chỉnh hợp đồng chính không đương nhiên cũng điều chỉnh thỏa thuận trọng tài của hợp đồng đó.[12]
Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam hiện hành lại không ghi nhận rõ ràng tính độc lập về pháp luật điều chỉnh của thỏa thuận trọng tài so với pháp luật điều chỉnh của hợp đồng chính nếu thỏa thuận liên quan đến tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Độc lập về “thẩm quyền ký kết”
Độc lập về thẩm quyền ký kết cũng là một nội dung đáng lưu tâm về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài. Nói cách khác, người có thẩm quyền ký kết hợp đồng chính và người có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài của hợp đồng chính đó hoàn toàn có thể không cùng là một chủ thể.
Ví dụ như trong một công ty cổ phần có người đại diện theo pháp luật duy nhất là Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị đại diện công ty ký kết hợp đồng bán tài sản của công ty có giá trị tương đương 40% tổng giá trị tài sản được ghi nhận trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty với bên thứ ba, và hợp đồng này có bao gồm điều khoản giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Câu hỏi đặt ra là liệu Chủ tịch Hội đồng quản trị có thẩm quyền đại diện công ty ký kết hợp đồng nói trên (bao gồm điều khoản thỏa thuận trọng tài) hay không?
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020[13], hợp đồng bán tài sản của công ty có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty (trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định giá trị hoặc tỷ lệ khác) phải được quyết định bởi Đại hội đồng cổ đông thông qua hình thức biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông với tỷ lệ 65% tổng số phiếu biểu quyết trở lên của tất cả cổ đông dự họp tán thành. Nói cách khác, hợp đồng bán tài sản này sẽ không có hiệu lực nếu Chủ tịch Hội đồng quản trị ký kết hợp đồng này mà chưa được quyết định bởi Đại hội đồng cổ đông.
Thế nhưng, cần lưu ý rằng kể cả khi hợp đồng này được ký kết bởi Chủ tịch Hội đồng quản trị mà không qua Đại hội đồng cổ đông quyết định, thỏa thuận trọng tài của hợp đồng này vẫn có hiệu lực. Bởi lẽ, pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam quy định người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài là “người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền hợp pháp và không vượt quá phạm vi được ủy quyền”.[14] Điều này đồng nghĩa với tư cách là người đại diện theo pháp luật của công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị vẫn có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài với bên thứ ba mà không cần quyết định của Đại hội đồng cổ đông.
Ví dụ minh họa trên cho thấy vấn đề tính độc lập về thẩm quyền ký kết rất dễ làm phát sinh rủi ro cho các bên trong hợp đồng nếu các bên không xác định thẩm quyền ký kết hợp đồng và thỏa thuận trọng tài của hợp đồng đó một cách rạch ròi và chính xác.
Một số lưu ý về nguyên tắc độc lập của thỏa thuận trọng tài khi soạn thảo hợp đồng
Để hạn chế rủi ro tranh chấp về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong giao dịch có yếu tố nước ngoài, một trong những vấn đề các bên cần quan tâm khi soạn thảo hợp đồng là lựa chọn luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Vì như đã nêu, do thỏa thuận trọng tài độc lập với hợp đồng nên luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài cũng độc lập với luật điều chỉnh hợp đồng. Nói cách khác, việc các bên lựa chọn luật điều chỉnh cho hợp đồng không có nghĩa luật đó cũng sẽ đương nhiên điều chỉnh thỏa thuận trọng tài của hợp đồng đó.
Thế nên khi soạn thảo hợp đồng, các bên cần thỏa thuận rõ ràng luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài. Trong trường hợp các bên muốn luật áp dụng của thỏa thuận trọng tài là luật áp dụng của hợp đồng chính, các bên cần nêu rõ rằng luật do các bên lựa chọn điều chỉnh hợp đồng chính cũng sẽ điều chỉnh cả thỏa thuận trọng tài.
Đồng thời, các bên cũng cần kiểm tra kỹ lưỡng các văn bản có liên quan (như Điều lệ công ty, Văn bản ủy quyền, Văn bản chỉ định,…) để xác định chính xác thẩm quyền của mỗi bên trong việc ký kết hợp đồng và thỏa thuận trọng tài của hợp đồng đó, từ đó hạn chế rủi ro một bên có thẩm quyền ký kết hợp đồng nhưng lại không có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài hoặc ngược lại.
Phụ trách:
![]() |
Cộng sự Cấp Cao Trần Phạm Hoàng Tùng
Điện thoại: (84) 901 334 192 Email: tung.tran@cnccounsel.com |
![]() |
Trợ lý luật sư Phạm Nguyễn Tấn Trung
Điện thoại: (84) 347 924 900 Email: trung.pham@cnccounsel.com |
——————————————————-
[1] Tòa án nhân dân tối cao và Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) (2017), Sổ tay pháp luật về trọng tài và hòa giải, Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 52.
[2] Tòa án nhân dân tối cao và Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) (2017), Sổ tay pháp luật về trọng tài và hòa giải, Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 3-4.
[3] Xem Quyết định số 09/2023/QĐ-PT ngày 17/01/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
[4] Nigel Blackaby, Constantine Partasides QC, Alan Redfern, Martin Hunter, Redfern and Hunter on International Arbitration (Sixth Edition), NXB. Đại học Oxford (2015), đoạn 2.101 – 2.113.
[5] Xem Quyết định số 06/2018/QĐ-PQTT ngày 11/09/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
[6] Đỗ Văn Đại, Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (Sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Hồng Đức (2022), đoạn 120.
[7] Prima Paint Corp. v. Flood & Conklin Mfg. Co., 388 U.S. 395 (1967).
[8] Stephen J. Ware, Arbitration Law’s Separability Doctrine After Buckeye Check Cashing, Inc. v. Cardegna, Nevada Law Journal, Vol. 8, No. 107 (2017), trang 107 <https://scholars.law.unlv.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1136&context=nlj>.
[9] Buckeye Check Cashing, Inc. v. Cardegna, 546 U.S. 440 (2006).
[10] Vishal Gera, India: Doctrine Of Blue Pencil, Mondaq (07/01/2016) <https://www.mondaq.com/india/contracts-and-commercial-law/456278/doctrine-of-blue-pencil>.
[11] Goh Yihan, Lee Pey Woan & Tham Chee Ho, Contract Law, Singapore Academy of Law Annual Review of Singapore Cases No. 15 (2014), trang 251 – 252 <https://ink.library.smu.edu.sg/cgi/viewcontent.cgi?article=3631&context=sol_research>.
[12] Nguyễn Trung Nam, Thỏa thuận trọng tài – Góc nhìn so sánh pháp luật Việt Nam với Hàn Quốc trong mối liên hệ với Luật mẫu 2006, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về “Những vấn đề đương đại trong trọng tài quốc tế” do Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 23/03/2022, trang 32 – 33, <https://viarb.vn/wp-content/uploads/2022/03/VIARB_Thoa-thuan-trong-tai-Goc-nhin-so-sanh-phap-luat-Viet-Nam-voi-Han-Quoc-trong-moi-lien-he-voi-Luat-Mau-2006.pdf>.
[13] Điểm d khoản 2 Điều 138, điểm đ khoản 2 Điều 147 và điểm d khoản 1 Điều 148 Luật Doanh nghiệp 2020.
[14] Khoản 2 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010; khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/03/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại.
Trong các bài viết tiếp theo, CNC sẽ lần lượt phân tích các nội dung quan trọng liên quan đến quy định pháp luật Trọng tài thương mại Việt Nam.
Bất kỳ ý kiến đóng góp, hiệu chỉnh nào của độc giả đối với các nội dung trong bản tin này hoặc cần CNC hỗ trợ thêm, vui lòng gửi về:
liên hệ
Công ty Luật TNHH CNC Việt Nam
CNC© | A Boutique Property Law Firm
The Sun Avenue, 28 Mai Chí Thọ, Phường An Phú, Quận 2,
Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam
T: (+84-28) 6276 9900 | H/L: (+84) 916 545 618
Miễn trừ:
Bản tin này được chuẩn bị hoặc được sử dụng vì mục đích giới thiệu hoặc cập nhật cho khách hàng những thông tin về những vấn đề và/hoặc sự phát triển các quan điểm pháp lý tại Việt Nam. Các thông tin được trình bày tại bản tin này không tạo thành ý kiến tư vấn thuộc bất kỳ loại nào và có thể được thay đổi mà không cần phải thông báo trước.