Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc gia
Ngày 15 tháng 05 năm 2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 500/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc gia thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắc là Quy hoạch điện VIII – PDP8).
Trong bài viết này, CNC sẽ tiến hành so sánh các nội dung quan trọng trong Quy hoạch điện VIII so với Quy hoạch điện VII cũng như bản Dự thảo trước đó của Quy hoạch điện VIII.
Ngoài ra, bài viết cũng hướng đến mục tiêu đánh giá khả năng triển khai của các dự án điện sắp tới.
Nội dung của Quy hoạch điện VIII
Quy hoạch điện VIII quy hoạch phát triển nguồn điện và lưới điện truyền tải ở cấp điện áp từ 220 kV trở lên, công nghiệp và dịch vụ về năng lượng tái tạo, năng lượng mới trên lãnh thổ Việt Nam thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn đến năm 2050, bao gồm cả các công trình liên kết lưới điện với các quốc gia láng giềng.
Đứng trước xu thế chuyển dịch sang nguồn năng lượng xanh, sạch đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là sau khi Hội nghị COP26 diễn ra, Quy hoạch điện VIII đặt ra mục tiêu đảm bảo vững chắc an ninh năng lượng quốc gia nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội – công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Song song với các mục tiêu đó, Quy hoạch điện VIII hướng còn đến mục tiêu thực hiện thành công công cuộc chuyển đổi năng lượng công bằng gắn với hiện đại hóa sản xuất, xây dựng lưới điện thông minh, quản trị hệ thống điện tiên tiến, phù hợp với xu thể chuyển đổi xanh, giảm phát thải, phát triển khoa học công nghệ như trọng tâm của Hội nghị COP26.
Điểm nổi bật Quy hoạch điện VIII
Trong khi PDP7 vẫn còn tập trung nhiều vào nhiệt điện than (48-51%) và nhiệt điện hạt nhân (1.3-6.6%), trong khi đó định hướng về ưu tiên phát triển quy mô công suất của các nguồn điện từ năng lượng tái tạo (38-25%) vẫn còn thấp và có xu hướng giảm khi tiến tới năm 2050; thì PDP8 hoàn toàn là một cuộc ‘chuyển dịch’ năng lượng.
Cụ thể, PDP8 đặt ra hướng phát triển mới khi tập trung vào các nguồn điện năng lượng tái tạo bằng cách tăng quy mô công suất điện năng lượng tái tạo (48% trên tổng công suất là 150.489 MW vào năm 2030 và 65.8-71% trên tổng công suất là 490.529-573.129 MW định hướng 2050) và đồng thời giảm đáng kể cơ cấu của điện than trong kế hoạch phân phối điện (giảm từ 20% trên tổng công suất là 150.489 MW tới năm 2030 xuống 0% định hướng 2050).
Khả năng triển khai các dự án điện Quy hoạch điện VIII
Theo nội dung của Quy hoạch điện VIII, khả năng triển khai của các dự án điện được thể hiện như dưới đây:
Điện than:
Quy hoạch điện VIII theo hướng tiếp tục phát triển các dự án đã xây dựng trong thời kỳ của Quy hoạch điện VII và không thực hiện xây dựng mới.
Các nhà máy nhiệt điện than định hướng sau khoảng 20 năm sẽ được xem xét chuyển đổi sang nhiên liệu sinh khối và ammoniac trước năm 2050.
Các nhà máy có tuổi thọ trên 40 năm nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu sẽ cho dừng vận hành.
Có thể thấy, tỷ trọng điện than trong ‘hình hài’ của Quy hoạch điện VIII đã thất thế so với tỷ trọng điện than được quy định trong nội dung của Quy hoạch điện VII.
Điện mặt trời:
Quy hoạch điện VIII hướng đến việc phát triển (không giới hạn công suất) đối với điện mặt trời mái nhà của người dân và mái công trình xây dựng, điện mặt trời tại các cơ sở kinh doanh, tiêu thụ tại chỗ (không bán điện vào hệ thống điện quốc gia).
Như vậy, sau phê duyệt của Quy hoạch điện VIII, các dự án điện mặt trời nối lưới không còn nằm trong diện được ưu tiên thúc đẩy phát triển như trước, thay vào đó sẽ là cơ chế thúc đẩy phát triển điện mặt trời mái nhà của người dân và mái công trình xây dựng, điện mặt trời tại các cơ sở kinh doanh theo hình thức tự sản tự tiêu.
Ngoài ra, tại Dự thảo Quy hoạch điện VIII, Bộ Công thương đã đề xuất chưa cho phép triển khai trong giai đoạn 2021-2030 với 27 dự án/phần dự án điện mặt trời chưa có nhà đầu tư, tổng công suất 4.136,25 MW; 12 dự án/phần dự án điện mặt trời, tổng công suất 1.634,4 MW đã có chủ trương đầu tư và chấp thuận chủ đầu tư nhưng đang trong giai đoạn lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Về vấn đề này, tại nội dung của Quy hoạch điện VIII, 27 dự án/phần dự án với tổng công suất là 4.136,25 MW (chưa giao chủ đầu tư) thì chưa được triển khai mà sẽ được xem xét sau năm 2030, trừ trường hợp các dự án/phần dự án này thực hiện theo hình thức tự sản, tự tiêu trên cơ sở không hợp thức hóa nếu có vi phạm về quy hoạch, đất đai và các quy định khác của pháp luật. Đối với 12 dự án/phần dự án đã được chấp thuận chủ trương đầu tư và giao chủ đầu tư thì sẽ được xem xét tiến độ cụ thể trong Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII.
Điện gió:
Quy hoạch điện VIII định hướng phát triển mạnh điện gió ngoài khơi kết hợp với các loại hình năng lượng tái tạo khác (điện mặt trời, điện gió trên bờ…) để sản xuất năng lượng mới (hydro, ammoniac xanh…) nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Cụ thể, tổng công suất của điện gió (không bao gồm loại dùng để xuất khẩu, loại dùng để sản xuất năng lượng mới) ngoài khơi là 6.000 MW (2030), 70.000-91.500 MW (2050) và trên bờ là 21.880 MW (2030), 60.050-77.050 MW (2050).
So với PDP7 với quy mô công suất điện gió là 1.000 MW (2030) và 6.200 MW (2050) thì tổng công suất điện gió theo PDP8 đã gia tăng đáng kể, với mức tăng tương ứng là 26.880 MW (2030) và 123.850-162.350 MW (2050).
Như vậy, có thể thấy rằng cơ hội để các nhà đầu tư tham gia các dự án điện gió trong thời gian tới vẫn là rất rộng mở.
Ngoài ra, theo PDP8, các dự án điện nặng lượng tái tạo (trừ điện mặt trời nối lưới) nhằm sản xuất năng lượng mới phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu sẽ được ưu tiên/cho phép phát triển không giới hạn.

Nhiệt điện LNG:
PDP8 hạn chế phát triển thêm các dự án nguồn điện sử dụng LNG mới để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu, cụ thể tới năm 2030 quy mô công suất của nhiệt điện LNG sẽ đạt 22.400 MW và giảm còn chưa tới 7.900 MW định hướng 2050.
Thêm vào đó, đến năm 2050 các nhà máy sử dụng LNG sẽ chuyển dần sang sử dụng hydro (với tổng công suất là 16.400-20.900 MW). Điều này một lần nữa cho thấy hướng phát triển tập trung của PDP8 đối với các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ xuất khẩu, sản xuất năng lượng mới (hydro, ammoniac xanh…).

Điện sinh khối, điện sản xuất từ rác, chất thải rắn nhằm tận dụng phụ phẩm nóng, lâm nghiệp, chế biến gỗ, thúc đẩy trồng rừng, xử lý môi trường ở Việt Nam:
So với PDP7 có mức quy hoạch điện sinh khối vào khoảng 500 MW (2030) và 2.000 MW (2050) thì PDP8 được xem là đang tạo điều kiện cho các dự án điện theo mô hình này, theo đó tổng công suất của loại dự án này sẽ là 2.270 MW (2030), 6.015 MW (2050), với mức tăng tương ứng là 1.770 MW (2030) và 4.015 MW (2050).
Các chủ đầu tư có thể phát triển các dự án điện loại này ở quy mô lớn nếu đủ nguồn nguyên liệu, hiệu quả sử dụng đất cao, cũng như đáp ứng các yêu cầu về xử lý môi trường, điều kiện lưới điện, giá điện và chi phí truyền tải.
Thủy điện:
PDP8 đặt ra yêu cầu về việc khai thác tối đa tiềm năng thủy điện, nhưng theo hướng mở rộng có chọn lọc đối với các nhà máy thủy điện hiện có, có thể phát triển cao hơn đối với các dự án thuộc Phụ lục III kèm theo Quyết định 500-QĐ/TTg.
Cụ thể, tổng công suất PDP8 đặt ra cho thủy điện vào khoảng 29.346 MW (2030) và 36.016 MW (2050) cao hơn nhiều so với quy mô công suất mà PDP7 đặt ra cho thủy điện (17.400 MW tới năm 2030).
Ngoài ra, PDP8 cũng đặt ra hướng phát triển đối với nhà máy thủy điện tích năng. Cụ thể, PDP8 khuyến khích phát triển (cho đến năm 2030) các dự án nhà máy thủy điện tích năng với quy mô công suất khoảng 2.400 MW.
Nhà máy điện đồng phát, nhà máy điện sử dụng nhiệt dư, khí lò cao, các sản phẩm phụ của dây chuyển công nghệ trong các cơ sở công nghiệp:
PDP8 theo hướng khuyến khích các chủ đầu tư phát triển các dự án điện loại này, và có thể đẩy cao quy mô của loại hình nhà máy điện này nếu phù hợp với nhu cầu sử dụng và tiềm năng của các cơ sở công nghiệp trong cả nước. theo PDP8, tổng công suất năm 2030 của loại nguồn điện này là 2.700 MW và hướng đến 2050 sẽ đạt 4.500 MW.
Nhiệt điện khí:
PDP8 khuyến khích và ưu tiên sử dụng tối đa khí trong nước cho phát điện, nếu sản lượng khí trong nước suy giảm thì nhập khẩu bổ sung bằng khí thiên nhiên hoặc LNG.
Tuy nhiên các dự án điện sử dụng khí không được ưu tiên xây thêm mà tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chuỗi dự án khí điện Lô B, Cá Voi Xanh, trong đó đầu tư xây dựng 6.900 MW các nhà máy nhiệt điện khí như Ô Môn II, III, IV (3.150 MW); Miền Trung I, II và Dung Quất I, II, III (3.750 MW); chuyển dự án Ô Môn I sang sử dụng khí Lô B.
Ngoài ra còn thực hiện nhà máy tua bin khí hỗn hợp Quảng Trị sử dụng khí mỏ Báo Vàng. PDP8 cũng bỏ không triển khai dự án Kiên Giang 1 và 2 do không xác định được nguồn nhiên liệu. Quy mô công suất của loại nguồn điện này sẽ đạt 14.930 MW (2030) và chưa tới 7.900 MW (2050).
Theo quy hoạch mà PDP7 đặt ra, quy mô công suất của nhiệt điện khí tới năm 2030 là 10.400 (thấp hơn PDP8), tuy nhiên định hướng 2050 tổng công suất nhiệt điện khí đạt khoảng 11.300 MW (cao hơn PDP8).
Có thể thấy, PDP8 đang theo hướng giảm phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu (nếu khí trong nước không đủ).
Nguồn điện linh hoạt:
Đây là nguồn điện vô cùng cần thiết để tích hợp các nguồn điện biến đổi như gió, mặt trời khi chưa có pin lưu trữ năng lượng từ điện gió, điện mặt trời quy mô lớn.
Đứng trước các kiến nghị về tỷ lệ cơ cấu nguồn điện, PDP8 đã đặt ra ưu tiên phát triển đối với nguồn điện linh hoạt (300 MW định hướng 2030 và 30.900-46.200 MW định hướng 2050) bằng cách khuyến khích phát triển các nhà máy thủy điện tích năng (như đã đề cập tại phần về Thủy điện).
Căn cứ quy hoạch nguồn điện của Quy hoạch điện VIII so với Quy hoạch điện VII
Có thể thấy, ở Quy hoạch điện VII, loại nguồn điện, quy mô công suất, vị trí quy hoạch và thời điểm xây dựng dự án được quy định cụ thể cho từng miền. Tuy nhiên cách thức quy hoạch này đã cho thấy các tồn tại của nó sau khoảng thời gian thực hiện PDP7. Bằng chứng là sự mất cân đối trong cung cầu giữa các miền, tạo ra sức ép lên lưới truyền tải liên miền và đồng thời gây lãng phí và tổn thất trong vận hành.
Khác với Quy hoạch điện VII, Quy hoạch điện VIII đặt ra yêu cầu linh hoạt hơn khi dựa vào các đánh giá về tiềm năng/trữ lượng, khả năng khai thác của các loại tài nguyên trong nước theo từng khu vực, kết hợp với nhu cầu điện bình quân hàng năm của từng miền để từ đó đặt ra các yêu cầu mềm dẻo hơn, phù hợp với mức cung cầu của từng miền trong từng giai đoạn. Quy hoạch điện VIII không còn phân bổ quy mô công suất theo từng khu vực địa lý cụ thể mà chỉ đưa ra danh mục một số dự án ưu tiên đầu tư trong Phụ lục II.
Có thể thấy, Quy hoạch điện VIII đã đề cập đến tiềm năng/trữ lượng, nhu cầu sử dụng điện cụ thể tại 3 miền cũng như cơ cấu nguồn điện để từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể chủ động đánh giá và tiến hành lựa chọn khu vực, loại nguồn điện để đầu tư.
Các nội dung cần chú ý khác
Bên cạnh việc phát triển nguồn điện thì việc phát triển lưới điện truyền tài cũng là một vấn đề được chú trọng trong Quy hoạch điện VIII. Trong đó, ước tính vốn đầu tư phát triển lưới điện truyền tải giai đoạn 2021-2030 là khoảng 14.9 tỷ USD, trong giai đoạn 2031-2050 là khoảng 34.8-38.6 tỷ USD. Quy hoạch điện VIII còn hướng đến nghiên cứu, cụ thể hóa chính sách xã hội hóa đầu tư lưới điện truyền tải, mở ra cơ hội nhiều hơn cho các nhà đầu tư tham gia nhiều hơn vào việc đầu tư phát triển lưới điện.
Quy hoạch điện VIII đặt ra các định hướng về việc xây dựng cơ chế đấu giá, đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư kèm giá điện trong quá trình sửa đổi Luật Điện lực; hướng đến ban hành thí điểm, tiến tới xây dựng chính thức cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp; nghiên cứu xây dựng quy định thu phí đối với các hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA).
Bên cạnh đó, Luật Điện lực, Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm vẫn đang được sửa đổi để hoàn thiên chính sách về đầu tư, quy hoạch, điều hành giá điện, xử lý các vướng mắt, thể chế hóa cơ chế phát triển, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo (dự kiến được trình Quốc Hội vào năm 2024).
Ngoài ra, PDP8 cũng đặt ra yêu cầu về nghiên cứu và xây dựng Luật về năng lượng tái tạo cũng như sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc giảm cường độ năng lượng của nên kinh tế.
Pingback: Việt Nam thúc đẩy năng lượng tái tạo với cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) – CNC | Công ty Luật TNHH CNC Việt Nam
Pingback: Vietnam’s Direct Power Purchase Agreement (DPPA) Program at a Glance – CNC | Công ty Luật TNHH CNC Việt Nam