Phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
Đối với tố tụng trọng tài, Hội đồng trọng tài đóng vai trò trung tâm, quyết định trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của quá trình giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, không phải lúc nào Hội đồng trọng tài cũng được công nhận có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, vấn đề phản đối thẩm quyền của hội đồng trọng tài thường phát sinh khi một bên cho rằng hội đồng trọng tài không có cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp.
Việc phản đối thẩm quyền không chỉ giúp các bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà còn là cách đảm bảo áp dụng đúng quy định pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp. Trong phạm vi bài viết này, CNC sẽ cung cấp tới quý khách hàng các thông tin cần thiết về vấn đề Phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.
Khái quát về phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
Phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài là biện pháp pháp lý mà một bên trong tranh chấp có thể sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nếu họ cho rằng Hội đồng trọng tài không đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định để thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Theo đó, trong quá trình tố tụng trọng tài, nếu một bên không đồng ý với thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, họ có thể đưa ra phản đối, yêu cầu làm rõ liệu Hội đồng trọng tài có đủ thẩm quyền để xét xử vụ việc hay không. Chẳng hạn một bên có thể đưa ra phản đối về hiệu lực hoặc khả năng thực hiện của thỏa thuận trọng tài.
Tại Việt Nam, phản đối thẩm quyền được quy định trong Luật Trọng tài thương mại 2010 và Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP về Hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại[1]. Bên cạnh đó, trên bình diện quốc tế, vấn đề phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài cũng có thể được tìm thấy trong các văn bản pháp lý về Trọng tài thương mại, mà tiêu biểu là Luật mẫu UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế[2].
Ngoài ra, nguyên tắc “tự xác định thẩm quyền của hội đồng trọng tài” (competence-competence) cũng đóng vai trò quan trọng trong phản đối thẩm quyền trọng tài. Theo đó, nguyên tắc này cho phép Hội đồng trọng tài có thẩm quyền tự quyết định thẩm quyền của chính mình qua việc xem xét sự tồn tại hay hiệu lực của thỏa thuận trọng tài[3]. Tuy vậy, quyền tự quyết này không phải là tuyệt đối và do đó, các bên vẫn có thể thực hiện quyền phản đối của mình đối với thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.
Phản đối thẩm quyền không chỉ là cách kiểm tra tính đúng đắn trong thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mà còn giúp đảm bảo quy trình giải quyết tranh chấp được thực hiện đúng quy định pháp luật. Đây là một biện pháp quan trọng để ngăn chặn việc Hội đồng trọng tài giải quyết vượt thẩm quyền hoặc giải quyết một cách không phù hợp. Theo đó, việc thực hiện phản đối thẩm quyền Hội đồng trọng tài có thể giúp:
Bảo vệ quyền lợi hợp pháp: Phản đối thẩm quyền giúp bên tranh chấp bảo vệ quyền lợi của mình nếu họ cho rằng tranh chấp không thuộc phạm vi của thỏa thuận trọng tài. Điều này ngăn chặn khả năng bị ràng buộc bởi phán quyết trọng tài không phù hợp hoặc vượt thẩm quyền.
Đảm bảo sự công bằng trong giải quyết tranh chấp: Biện pháp này buộc Hội đồng trọng tài phải xem xét cẩn trọng về thẩm quyền của mình trước khi tiến hành giải quyết vụ việc, từ đó giảm thiểu nguy cơ thiên vị trong quá trình xét xử.
Ngăn chặn việc lạm quyền hoặc giải quyết không phù hợp: Việc phản đối thẩm quyền kịp thời giúp các bên ngăn chặn Hội đồng trọng tài xem xét và đưa ra quyết định đối với những vấn đề mà họ không có thẩm quyền.
Duy trì sự minh bạch và đúng quy định pháp luật: Phản đối thẩm quyền đặt ra yêu cầu Hội đồng trọng tài phải chứng minh tính hợp lệ của thẩm quyền trước khi tiến hành bất kỳ thủ tục nào. Điều này giúp đảm bảo các quy trình được thực hiện đúng luật và phù hợp với thỏa thuận trọng tài giữa các bên.
Tiết kiệm thời gian và chi phí: Nếu tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, việc phản đối thẩm quyền giúp tránh lãng phí thời gian và chi phí cho một quá trình trọng tài không hợp lệ. Thay vào đó, tranh chấp có thể được giải quyết tại cơ quan tài phán có thẩm quyền.
Căn cứ phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
Trên thực tế, có nhiều lý do để các bên trong tranh chấp phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Tại Việt Nam, vấn đề phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài được quy định tại Điều 35.4 và Điều 43.1 Luật Trọng tài thương mại. Theo đó, nếu một bên phát hiện có vi phạm quy định của Luật này hoặc của thỏa thuận trọng tài thì có quyền đưa ra yêu cầu phản đối trước Hội đồng trọng tài.
Như vậy, các bên có thể đưa ra yêu cầu phản đối thẩm quyền đối với Hội đồng trọng tài nếu có các căn cứ rõ ràng về việc Hội đồng trọng tài tiến hành xét xử sai thẩm quyền. Căn cứ này có thể dựa trên thỏa thuận trọng tài của chính các bên hoặc do vi phạm quy định của Luật Trọng tài thương mại, cụ thể là những quy định liên quan đến thẩm quyền xét xử trọng tài và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Các căn cứ phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài có thể khái quát lại như sau:
Các căn cứ phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
Thứ nhất là trường hợp không có thỏa thuận trọng tài. Theo đó, thỏa thuận cần phải được lập thành văn bản, có thể là một hợp đồng riêng biệt hoặc là điều khoản trọng tài trong một hợp đồng chính. Thỏa thuận trọng tài cũng có thể được thể hiện qua các phương tiện khác như thư từ, điện tử hoặc các hình thức khác được ghi nhận rõ ràng[4].
Nếu thỏa thuận này không được lập đúng theo quy định pháp luật hoặc không thể hiện được sự đồng ý rõ ràng của các bên, thì thỏa thuận sẽ bị coi là không hợp lệ và không có giá trị pháp lý. Trong trường hợp này, các bên có quyền phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài vì không có cơ sở pháp lý để Hội đồng giải quyết tranh chấp.
Thứ hai là trường hợp vượt quá phạm vi thỏa thuận trọng tài. Sự thỏa thuận của các bên là điều kiện tiên quyết để phát sinh thẩm quyền của Hội đồng trọng tài[5]. Do đó, một trong những nguyên tắc quan trọng của trọng tài là Hội đồng trọng tài chỉ có quyền giải quyết những tranh chấp nằm trong phạm vi thỏa thuận trọng tài của các bên.
Nếu tranh chấp phát sinh không thuộc nội dung hoặc vượt quá phạm vi đã được thỏa thuận, Hội đồng trọng tài sẽ không có thẩm quyền. Điều này có thể xảy ra nếu các bên không rõ ràng khi xác định phạm vi của thỏa thuận trọng tài hoặc tranh chấp phát sinh từ một vấn đề không được dự kiến trong thỏa thuận.
Chẳng hạn, trong một trường hợp, khi Tòa án xem xét công nhận và cho thi hành phán quyết của Trung tâm trọng tài quốc tế Thụy Sỹ, Tòa án đã nhận định rằng khi giải quyết tranh chấp, trọng tài không chỉ đề cập tới hợp đồng mua bán thép mà còn đề cập tới cả L/C cho hợp đồng mua bán thép. Tòa án đã xác định trọng tài không có thẩm quyền đối với những vấn đề liên quan tới L/C nên “việc công ty Starglobe yêu cầu Trọng tài buộc Công ty Tiến Lên bồi thường do L/C không được Ngân hàng TMCP Sài Gòn Đồng Nai thanh toán là không thuộc thẩm quyền của Trọng tài. Trọng tài viên duy nhất chấp nhận thụ lý và ra Phán quyết đối với yêu cầu phản tố liên quan đến vấn đề thanh toán L/C của Công ty Starglobe là vượt quá thẩm quyền”.[6]
Do đó, trong trường hợp nhận thấy Hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền trong quá trình giải quyết, các bên tranh chấp có thể phản đối đối với phần vượt quá và yêu cầu Hội đồng trọng tài giải quyết đúng theo phạm vi thẩm quyền.
Thứ ba là trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Theo quy định của Luật Trọng tài Thương mại 2010, một thỏa thuận trọng tài phát sinh hiệu lực pháp lý chỉ khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định[7]. Đồng thời, Luật cũng quy định các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu[8]. Chẳng hạn, nếu một trong các bên ký kết thỏa thuận trọng tài trong tình trạng bị ép buộc, lừa dối hoặc không đủ năng lực hành vi dân sự, thì thỏa thuận này sẽ không có hiệu lực pháp lý.
Ngoài ra, thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội hoặc trường hợp tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài cũng bị coi là vô hiệu.
Theo quy định pháp luật hiện hành, chỉ một số loại tranh chấp nhất định được giải quyết thông qua trọng tài[9], bao gồm:
Như vậy, trọng tài chỉ được giải quyết những vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Nếu Hội đồng trọng tài nhận giải quyết các vụ việc như hôn nhân gia đình hay phá sản thì tức là đã vi phạm quy định về thẩm quyền trọng tài. Do đó, các bên tranh chấp có quyền phản đối thẩm quyền của Hội đồng. Việc này nhằm đảm bảo rằng các cơ quan giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tuân thủ đúng quy định pháp luật về thẩm quyền.
Nói tóm lại, trong những trường hợp nhận thấy thỏa thuận trọng tài vô hiệu, các bên có quyền phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và nếu được chứng minh rằng thỏa thuận trọng tài là vô hiệu, Hội đồng sẽ không được tiếp tục giải quyết tranh chấp.
Thứ tư là trường hợp không đáp ứng điều kiện tiên quyết để tiến hành xét xử trọng tài (Preconditions to an Arbitration). Theo đó, trong điều khoản giải quyết tranh chấp thường bao gồm các điều khoản yêu cầu các bên bắt buộc phải tham gia vào nhiều phương thức giải quyết tranh chấp thay thế khác nhau như đàm phán và/hoặc hòa giải khác nhau như một điều kiện tiên quyết để tiến hành tố tụng tại trọng tài hoặc Tòa án[10].
Vì đây là điều kiện bắt buộc trong thỏa thuận của các bên nên nếu điều kiện này chưa được thực hiện mà một bên đã đưa tranh chấp ra Hội đồng trọng tài thì bên kia có thể phản đối thẩm quyền. Việc này nhằm bảo vệ sự toàn vẹn của các thỏa thuận ban đầu và đảm bảo các bước giải quyết tranh chấp được tuân thủ đầy đủ.
Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, pháp luật về trọng tài tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa có bất kỳ quy định cụ thể nào về vấn đề có bắt buộc các bên phải thực hiện đầy đủ các thủ tục tiền tố tụng hay không. Tuy nhiên, các quyết định của tòa án cho thấy rằng những vi phạm này thường được xem là vấn đề về khả năng thụ lý (admissibility) thay vì thẩm quyền tài phán (jurisdiction). Cụ thể:
Phân biệt Thẩm quyền tài phán và Khả năng thụ lý
Trong Quyết định số 526/2013/KDTM-QĐ ngày 15/5/2013 của Tòa án Nhân dân TP. Hồ Chí Minh, Tòa án xác định rằng việc không thực hiện hòa giải trước khi trọng tài không ảnh hưởng đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, coi thủ tục hòa giải là độc lập với thẩm quyền của trọng tài.
Ngược lại, Quyết định số 10/2014/QĐ-PQTT ngày 28/10/2014 của Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội đã hủy một phán quyết trọng tài do các bên không tiến hành thương lượng trước, coi đây là vi phạm trình tự giải quyết tranh chấp theo từng bước theo Điều 68.2(b) của Luật Trọng tài Thương mại.
Gần đây hơn, Quyết định số 02/2020/QĐ-PQTT ngày 23/4/2020 của Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội làm rõ rằng việc không tuân thủ điều kiện tiền tố để khởi kiện trọng tài không đồng nghĩa với việc thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện. Điều này cho thấy tòa án Việt Nam có xu hướng coi những vi phạm này là vấn đề về khả năng thụ lý hơn là thẩm quyền tài phán.
Tóm lại, các quyết định của Tòa án hiện cũng đang chưa có sự đồng nhất. Vì vậy, các bên cũng cần lưu ý khi xây dựng điều khoản thỏa thuận trọng tài nhằm tránh các rủi ro về sau.
Các nội dung liên quan đến phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
Các lưu ý đối với phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
Trước hết về vấn đề hình thức và nội dung phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Phản đối thẩm quyền phải được lập thành văn bản và gửi đến Hội đồng trọng tài cũng như các bên liên quan trong tranh chấp. Nội dung của văn bản phản đối cần phải nêu rõ căn cứ pháp lý và các chứng cứ cụ thể để chứng minh lý do phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Điều này nhằm đảm bảo rằng các bên đều có thông tin đầy đủ và có thể đưa ra các lập luận cần thiết trong quá trình giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định rõ rằng bị đơn trong vụ tranh chấp nếu có phản đối về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì cần phải nêu rõ điều đó trong bản tự bảo vệ[11].
Về thời điểm phản đối thẩm quyền, bên tranh chấp phải thực hiện phản đối thẩm quyền ngay khi nhận thấy có căn cứ phản đối trong thời hạn nhất định[12]. Nếu thời hạn này không quy định trong luật thì sẽ dựa trên thỏa thuận các bên hoặc theo quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài. Trường hợp các bên không thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng trọng tài không quy định thì việc phản đối phải được thực hiện trước thời điểm Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết[13].
Nếu hết thời gian mà các bên không đưa ra phản đối thì sẽ bị mất quyền phản đối[14] do được coi là đã tự từ bỏ quyền này. Việc phản đối thẩm quyền phải được thực hiện kịp thời vì nếu không thực hiện trong thời gian quy định, bên phản đối có thể bị xem là từ bỏ quyền này, đồng ý để Hội đồng trọng tài tiếp tục giải quyết tranh chấp.
Về xử lý phản đối thẩm quyền, Hội đồng trọng tài có quyền tự mình xem xét và quyết định về thẩm quyền của mình theo nguyên tắc tự xác định thẩm quyền, tức là Hội đồng có quyền tự xác định xem liệu nó có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không. Theo đó, trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải tự xem xét về chính thẩm quyền giải quyêt vụ việc của mình[15] và ra quyết định về vấn đề thẩm quyền.
Nếu các bên không đồng ý với quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, các bên có thể thực hiện quyền phản đối trước Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án trong thời hạn năm ngày làm việc[16]. Lúc này, Tòa án có thể can thiệp và đưa ra phán quyết cuối cùng về việc Hội đồng trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không.
Hậu quả pháp lý của việc phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
Các bên có thể thực hiện việc phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài hoặc không.
Không thực hiện phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
Trong trường hợp các bên không thực hiện việc phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì sẽ được coi là đã từ bỏ và mất quyền này[17]. Nói cách khác, nếu các bên có phát hiện ra sai phạm, tuy nhiên lại không thực hiện việc phản đối thẩm quyền đúng thời hạn thì sẽ đánh mất quyền này trước cả Hội đồng trọng tài và Tòa án. Theo đó, sau thời hạn quy định[18] mà một trong các bên mới đưa ra yêu cầu phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì cũng sẽ không được chấp nhận và không được giải quyết.
Ngoài ra, các bên tham gia tranh chấp rất cần lưu ý về vấn đề mất quyền phản đối. Theo đó, trong quá trình tham gia tố tụng trọng tài, nếu phát hiện bất cứ vi phạm gì về vấn đề thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì các bên cần thực hiện quyền phản đối của mình ngay lập tức.
Trong trường hợp các bên phát hiện vi phạm về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nhưng vẫn tham gia tố tụng và không có bất cứ phản đối gì về vấn đề này cho đến khi Hội đồng trọng tài ra phán quyết cuối cùng. Sau đó, các bên nộp đơn lên Tòa án yêu cầu hủy phán quyết trọng tài do vi phạm về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì yêu cầu này sẽ không được Tòa án chấp nhận.
Nguyên nhân là do các bên đã mất quyền phản đối theo Điều 13 Luật Trọng tài thương mại 2010. Do đó, các bên không còn quyền được khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đối với những vi phạm đã mất quyền phản đối đó[19].
Thực hiện phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
Trong trường hợp các bên thực hiện việc phản đối thẩm quyền, có thể xảy ra các tình huống sau:
(i) Hội đồng trọng tài chấp nhận việc phản đối là hợp lệ
Nếu phản đối thành công và vi phạm về thẩm quyền là do vượt quá phạm vi thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì Hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết vụ việc với phần phạm vi thuộc thẩm quyền của mình. Đối với phần vượt quá phạm vi, Hội đồng trọng tài không được phép xét xử hoặc chỉ xét xử nếu được sự cho phép của các bên tham gia tranh chấp.
Nếu phản đối thẩm quyền thành công trong các trường hợp còn lại, Hội đồng trọng tài sẽ phải chấm dứt việc giải quyết tranh chấp. Khi đó, tranh chấp sẽ không còn thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nữa và việc tiếp tục giải quyết tranh chấp như thế nào sẽ do các bên thỏa thuận và quyết định.
Theo đó, Hội đồng trọng tài có thể tiếp tục thực hiện giải quyết tranh chấp nếu các bên thỏa thuận và đồng ý tiếp tục tiến hành giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu không các bên có thể lựa chọn khởi kiện ra Tòa án để tiếp tục giải quyết theo quy định của pháp luật[20]. Đây là một biện pháp quan trọng để bảo vệ quyền lợi của các bên trong trường hợp Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, đồng thời đảm bảo rằng tranh chấp được giải quyết đúng nơi và đúng quy trình pháp lý.
(ii) Hội đồng trọng tài không chấp nhận việc phản đối
Nếu phản đối thẩm quyền không thành công, Hội đồng trọng tài sẽ tiếp tục giải quyết vụ việc và các bên sẽ phải chấp nhận quyết định của Hội đồng về thẩm quyền. Tuy nhiên, trong trường hợp Hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết tranh chấp và cuối cùng ban hành phán quyết mà một bên vẫn không đồng ý với phán quyết và cho rằng Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền, họ có thể yêu cầu Tòa án hủy phán quyết[21].
Lúc này, Tòa án có thể hủy phán quyết trọng tài nếu có căn cứ cho rằng Hội đồng trọng tài đã vượt quá thẩm quyền hoặc không có thẩm quyền đối với tranh chấp đó[22]. Đây là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên và đảm bảo rằng các phán quyết trọng tài không vi phạm nguyên tắc thẩm quyền hợp pháp.
Kết luận
Phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài là công cụ pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp. Việc phản đối cần được thực hiện đúng thời điểm, dựa trên các căn cứ pháp lý vững chắc và tuân thủ quy pháp luật. Điều này không chỉ đảm bảo tính công bằng trong giải quyết tranh chấp mà còn góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của phương thức trọng tài tại Việt Nam.
Việc hiểu rõ về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài là điều cần thiết để các bên tranh chấp có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách hiệu quả. Để hiểu rõ thêm về vấn đề này, CNC mời quý khách hàng tham khảo các bài viết về Quy định thành lập Hội đồng trọng tài và Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.
Thông tin liên hệ
Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc hay câu hỏi nào, hay cần được tư vấn về việc này vui lòng liện hệ với CNC qua địa chỉ sau:
Địa chỉ: 28 Đại lộ Mai Chí Thọ, Phường An Phú, Tp. Thủ Đức, Hồ Chí Minh, Việt Nam
Điện thoại: (84) 28-6276 9900
Hot line: (84) 916-545-618
Email: contact@cnccounsel.com
Website: http://cnccounsel.com/
Phụ trách:
![]() |
Trần Phạm Hoàng Tùng I Cộng sự Cấp Cao
Điện thoại: (84) 901 334 192 Email: tung.tran@cnccounsel.com |
![]() |
Nguyễn Thị Hồng Nhung I Cộng tác viên
Điện thoại: (84) 347 924 900 |
[1] Điều 13, Luật Trọng tài thương mại 2010 và Điều 6 Nghị quyết 01/2014/HĐTP.
[2] Điều 4, Luật mẫu UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế 1985.
[3] Trần Phạm Hoàng Tùng, Phạm Nguyễn Tấn Trung, ‘Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài’ CNC Counsel <https://cnccounsel.com/tin-tuc/tinh-doc-lap-cua-thoa-thuan-trong-tai>truy cập ngày 12/12/2024.
[4] Điều 16, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[5] Thoả thuận trọng tài thương mại Quốc tế, https://tracent.com.vn/thoa-thuan-trong-tai-thuong-mai-quoc-te/, truy cập ngày 12/12/2024.
[6] Nguyễn Thị Thu Trang, ‘Công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam’ (13/10/2022) < https://dzungsrt.com/wp-content/uploads/2022/12/20221007_Recognition-and-Enforcement-of-Foreign-Arbitral-Awards-in-Vietnam_VN.pdf>
[7] Điều 5, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[8] Điều 18, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[9] Điều 5, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[10] Logan Leung, Devathas Satianathan, ‘Breach of Preconditions to an Arbitration Agreement: A Matter of Jurisdiction or Admissibility?’, <Breach of Preconditions to an Arbitration Agreement: A Matter of Jurisdiction or Admissibility? – Arbitration Asia – Singapore>, truy cập ngày 26/02/2025.
[11] Điều 35.4, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[12] Điều 13, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[13] Điều 6.1, Nghị quyết 01//2014/NQ-HĐTP.
[14] Điều 13, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[15] Điều 43, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[16] Điều 44, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[17] Điều 13, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[18] Điều 6.1, Nghị quyết 01/2014/HĐTP.
[19][19] Điều 6.2, Nghị quyết 01/2014/HĐTP.
[20] Điều 44.6, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[21] Điều 69, Luật Trọng tài thương mại 2010.
[22] Điều 68, Luật Trọng tài thương mại 2010.