Những vấn đề về hoàn trả tiền bảo hành trong thực tiễn

Ngày đăng: Thứ Tư, 18/06/25 Người đăng: Admin

Những vấn đề về hoàn trả tiền bảo hành trong thực tiễn

Liên quan đến thời điểm hoàn trả tiền bảo hành hay tiền giữ lại (Retention Money), mặc dù trên lý thuyết, quy định về thời điểm hoàn trả tiền bảo hành có vẻ khá rõ ràng nhưng thực tế áp dụng lại cho thấy quy định tại khoản 2 Điều 28 Nghị định 06/2021/NĐ-CP (“Nghị định 06/2021”) còn tồn tại nhiều vấn đề gây tranh cãi.

Cụ thể, khoản 2 Điều 28 Nghị định 06/2021 đặt ra cho Nhà thầu 2 điều kiện cần thỏa mãn để được hoàn trả tiền bảo hành:

  • Một là, thời hạn bảo hành đã kết thúc; và
  • Hai là, Chủ đầu tư xác nhân Nhà thầu đã hoàn thành trách nhiệm bảo hành;

Tuy nhiên trong thực tiễn, các vấn đề về khấu trừ, bảo lưu, giải phóng tiền bảo hành lại diễn ra rất phức tạp, điều này khiến cho cách quy định của Nghị định 06/2021 dường như không thể dự liệu được toàn bộ các tình huống có thể xảy ra. Một trong số đó là các tranh chấp phát sinh từ việc xác định thời điểm hoàn trả tiền bảo hành.

Tải file PDF tại đây:CNC Newsletter_Những vấn đề về hoàn trả tiền bảo hành trong thực tiễn

Những quy định pháp luật liên quan đến tiền bảo hành

Tiền Bảo Hành là gì?

Để làm rõ, liệu thời điểm nào là thời điểm mà Chủ Đầu Tư cần hoàn trả/ giải phóng khoản tiền bảo hành của Nhà thầu, ta cần xác định được tiền bảo hành là gì?

Đối chiếu quy định của Luật Xây dựng 2014 hay Nghị định 06/2021 về quản lý chất lượng, thi công xây dựng và bảo trì công trình, cả 2 văn bản này đều không đưa ra bất kỳ định nghĩa thế nào là “tiền bảo hành”. Về mặt thực tiễn, tiền bảo hành có thể được hiểu là một tỷ lệ, một khoản tiền được Chủ Đầu tư tạm giữ lại trong một khoảng thời gian nhất định với mục đích đảm bảo rằng (i) Công Việc được Nhà Thầu thực hiện phù hợp với điều kiện, tiêu chuẩn được quy định trong Hợp đồng, và (ii) Nhà Thầu sẽ chịu trách nhiệm về việc bảo hành đối với những sai sót khi công trình được đưa vào sử dụng, vận hành trong khoảng thời gian bảo hành.

Theo đó, tiền bảo hành được Chủ Đầu Tư sử dụng một công cụ tài chính để bảo vệ quyền lợi của mình trong trường hợp Nhà Thầu không thực hiện đúng các quy định của Hợp Đồng.

Trên thực tế, tiền bảo hành có thể được tồn tại dưới các hình thức như:

  • Tiền mặt (được Chủ Đầu Tư tạm giữ ở kỳ thanh toán cuối cùng);
  • Bảo lãnh Ngân hàng;
  • Tài sản đảm bảo;

tiền bảo hành

Các cách thức của tiền bảo hành

Đối với mức tiền bảo hành được giữ lại, về nguyên tắc thì các Bên có thể thỏa thuận với nhau về tỷ lệ tiền bảo hành được giữ lại, tuy nhiên đối với công trình sử dụng vốn đầu tư công hoặc vốn nhà nước ngoài đầu tư công, tỷ lệ giữ lại tối thiểu là:

  • 3% giá trị hợp đồng đối với công trình xây dựng cấp đặc biệt và cấp I;
  • 5% giá trị hợp đồng đối với công trình xây dựng cấp còn lại[1];

Các khoản tiền này thông thường sẽ được Chủ Đầu Tư giữ lại theo các hình thức như: (i) giữ lại trong từng kỳ thanh toán tạm, giao động từ 5-10%; (ii) giữ lại trong kỳ thanh toán cuối cùng …

Thời điểm hoàn trả Tiền bảo hành

Tương tự như cách tiếp cận về tỷ lệ tiền giữ lại cho bảo hành, các Bên trong Hợp đồng được tự do trong việc thỏa thuận về thời điểm và điều kiện mà Chủ Đầu Tư có nghĩa vụ hoàn trả tiền bảo hành. Ví dụ như hoàn trả 100% khi hoàn thành công trình, hay hoàn trả theo từng giai đoạn nghiệm thu, …

tiền bảo hành

Các trường hợp thanh toán tiền bảo hành

Mặc khác, dưới góc độ quy định của luật, khoản 2 Điều 28 Nghị định 06/2021 quy định khoản tiền bảo hành chỉ được hoàn trả sau khi kết thúc thời hạn bảo hành và Nhà Thầu được Chủ đầu tư xác nhận đã hoàn thành trách nhiệm bảo hành. Mặc dù về lý thuyết, quy định về thời điểm hoàn trả tiền bảo hành có vẻ khá rõ ràng nhưng thực tế áp dụng lại cho thấy quy định tại khoản 2 Điều 28 Nghị định 06/2021 còn tồn tại nhiều vấn đề gây tranh cãi.

Cụ thể, khoản 2 Điều 28 Nghị định 06/2021 đặt ra cho Nhà thầu 2 điều kiện cần thỏa mãn để được hoàn trả tiền bảo hành:

  • Một là, thời hạn bảo hành đã kết thúc; và
  • Hai là, Chủ đầu tư xác nhân Nhà thầu đã hoàn thành trách nhiệm bảo hành;

Như vậy có thể thấy, ngoài điều kiện thứ 2 liên quan đến việc xác nhận của Chủ đầu tư thì thời điểm hoàn trả tiền bảo hành phụ thuộc hoàn toàn vào thời hạn bảo hành công trình.

Thời điểm bắt đầu tính bảo hành trong một số trường hợp đặc biệt

Theo quy định của pháp luật hiện nay, thời hạn bảo hành công trình lại được tính kể từ thời điểm hạng mục công trình, công trình xây dựng được chủ đầu tư nghiệm thu[2]. Trong khi đó trên thực tế, việc nghiệm thu của Chủ Đầu tư để tính thời hạn bảo hành là nghiệm thu hoàn thành công trình để đưa vào sử dụng, không phải nghiệm thu thanh toán hay nghiệm thu giai đoạn.

tiền bảo hành

Thời điểm bắt đầu tính thời hạn bảo hành

Đối chiếu quy định này với việc thực hiện hợp đồng trên thực tế đã làm nảy sinh câu hỏi: Vậy đâu là thời điểm bắt đầu tính thời hạn bảo hành trong trường hợp hạng mục công trình, công trình xây dựng chưa được Chủ đầu tư nghiệm thu hoàn thành hoặc trường hợp hợp đồng bị chấm dứt trước thời hạn?

Quan điểm của Tòa án trong thực tế xét xử tranh chấp

Xuất phát từ cách quy định như trên, thực tế xét xử tranh chấp cho thấy mỗi Tòa án tại mỗi nơi có quan điểm không giống nhau trong hướng tiếp cận vấn đề.

Điển hình như trong Bản án phúc thẩm số 154/2022/KDTM-PT ngày 7/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, các bên có thỏa thuận trong Hợp đồng rằng thời hạn bảo hành là 24 tháng “kể từ ngày hai bên ký vào Biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng. Theo đó, Tòa án cho rằng trong trường hợp chưa có Biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng nhưng tồn tại thời điểm mà các bên thống nhất về:

  • khối lượng; và
  • giá trị hoàn thành; và
  • đối chiếu công nợ

thì cũng đã thể hiện công trình đã hoàn thành và do vậy thời điểm bắt đầu bảo hành sẽ được tính từ đây mà không phụ thuộc vào việc các bên đã ký Biên bản nghiệm thu hay chưa.

Hướng tiếp cận này của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội cho thấy sự diễn giải và áp dụng linh hoạt các quy định của hợp đồng trong bối cảnh thực hiện trên thực tế. Bởi lẽ, việc Chủ đầu tư hay Nhà thầu chính chỉ dựa vào cơ sở chưa có Biên bản nghiệm thu hoàn thành mà cho rằng thời hạn bảo hành chưa bắt đầu trong khi trên thực tế công việc đã được hoàn thành và được chính Chủ đầu tư hay Nhà thầu chính xác nhận là không thật sự phù hợp.

Thế nhưng ngược lại với quan điểm của Tòa án nhân dân Hà Nội, Hội đồng xét xử trong Bản án phúc thẩm số 16/2022/KDTM-PT ngày 15/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng lại có quan điểm tôn trọng tối đa thỏa thuận của các bên trong hợp đồng.

Cụ thể, các bên thỏa thuận giá trị tiền bảo hành là 2.5% giá trị quyết toán sẽ được Bị đơn hoàn trả cho Nguyên đơn sau 01 (một) năm kể từ ngày nghiệm thu hoàn thành bàn giao đưa hạng mục công trình vào sử dụng. Do đó, Tòa án nhân dân Đà Nẵng nhận định rằng trường hợp các bên đã thỏa thuận thời hạn bảo hành được tính kể từ ngày nghiệm thu hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng thì khi các bên chưa ký biên bản nghiệm thu, thời hạn bảo hành vẫn còn.

tiền bảo hànhHướng tiếp cận của các Tòa án về thời điểm bắt đầu bảo hành

Tuy nhiên cả 2 hướng lập luận trên của Tòa đều chưa có những điểm chưa hợp lý.

Thứ nhất, nếu cho rằng thời điểm mà các Bên trong hợp đồng thống nhất được khối lượng hoàn thành, giá trị hoàn thành và đối chiếu công nợ là thời điểm bắt đầu tính bảo hành thì rõ ràng các Bên không cần tiến đến bước quyết toán mới có thể xác định các con số trên. Bởi lẽ những vấn đề liên quan đến sản lượng, khối lượng, giá trị thanh toán, công nợ đều được ghi nhận rõ ràng và cụ thể trong hồ sơ thanh toán tạm từng đợt. Và do đó việc xác định hay thống nhất những vấn đề trên rõ ràng không ảnh hưởng cũng như không có mối liên hệ gắn kết nào với thời điểm tính bảo hành.

Thứ hai, trường hợp cho rằng chưa ký biên bản nghiệm thu thì thời hạn bảo hành vẫn còn như Tòa Đà Nẵng lại gây nên tình cảnh quá bất lợi cho Nhà thầu. Bởi vì mặc dù Luật Xây dựng có quy định rằng Chủ Đầu tư có nghĩa vụ nghiệm thu hạng mục công trình, công trình xây dựng tuy nhiên lại bỏ ngỏ phương án xử lý nếu Chủ Đầu tư cố tình trì hoãn không nghiệm thu. Như vậy nếu tính thời điểm bảo hành như Tòa Đà Nẵng thì Nhà thầu sẽ rơi vào tính huống phải chịu trách nhiệm bảo hành vô thời hạn cho đến khi Chủ Đầu tư đồng ý nghiệm thu và ký biên bản.

Đặc biệt hơn, trong bối cảnh của Bản án phúc thẩm số 16/2022/KDTM-PT ngày 15/6/2022, Bị đơn thậm chí đã có văn bản yêu cầu dừng việc thực hiện hợp đồng nên việc Tòa án nhân dân Đà Nẵng yêu cầu phải có biên bản nghiệm thu hoàn thành đưa công trình vào sử dụng là không phù hợp với thực tế thực hiện hợp đồng của các bên.

Quan điểm của quốc tế

Các khiếu nại liên quan đến việc hoàn trả tiền bảo hành cũng là một trong những vấn đề luôn được quan tâm không chỉ tại thị trường xây dựng ở Việt Nam mà còn diễn ra ở các thị trường khác.

Theo đó, tại vụ Harji Engineering Works Priviate Limited v. Pinjab and Sìn Bank & Anr, Tòa án New Dehi, Ấn Độ, khi xem xét về Thời hạn thông báo khiếm khuyết (thời hạn bảo hành) – Defect Notification Period (DNP) đã đồng ý với quan điểm của Dr. George rằng một khi hợp đồng bị chấm dứt trước hạn, quy định về thời hạn bảo hành sẽ không thể được áp dụng.

“… Theo bản chất của hợp đồng xây dựng, thời hạn bảo hành bắt đầu sau khi công trình được hoàn thành. Tuy nhiên, trong vụ việc này, do công việc đã bị chấm dứt, không có cơ sở để xác định thời điểm kết thúc của thời hạn bảo hành nhằm thực hiện bảo lãnh ngân hàng (BGs).

Tương tự, trong vụ việc Harvinder Singh & Co. (supra), Tòa án đã kết luận rằng khi một hợp đồng xây dựng bị chấm dứt trước thời điểm hoàn thành công trình, thời hạn bảo hành khiếm khuyết sẽ không bao giờ bắt đầu.”

Như vậy, Tòa án New Dehi trong vụ việc này đã đề cập đến 03 (ba) quan điểm tương đối quan trọng về bảo hành trong bối cảnh hợp đồng bị chấm dứt trước hạn:

  • Một khi hợp đồng bị chấm dứt trước khi Công trình được hoàn thành, thời hạn bảo hành “không bao giờ bắt đầu”; và
  • Vì vậy, Nhà thầu không có nghĩa vụ phải bảo hành công việc (trừ trường hợp các bên thỏa thuận cụ thể tại hợp đồng); và
  • Đồng thời, Chủ đầu tư/ Nhà thầu chính không có cơ sở để tiếp tục tạm giữ khoản Tiền bảo hành của Nhà thầu.

Ba quan điểm của toà án New Delhi về bảo hành trong bối cảnh hợp đồng chấm dứt trước hạn

Quan điểm và đề xuất

Với kinh nghiệm tham gia giải quyết những vụ tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng, chúng tôi cho rằng thời điểm bắt đầu tính thời hạn bảo hành trong trường hợp công trình đã hoàn thành trên thực tế tuy nhiên chưa được nghiệm thu phải mang bản chất tương tự như thời điểm mà công trình đã hoàn thành và được nghiệm thu. Và thời điểm đó nên là ngày mà hợp đồng chính thức bị chấm dứt hiệu lực.

Bởi vì về bản chất, tại thời điểm hợp đồng bị chấm dứt và thời điểm hạng mục công trình, công trình xây dựng được nghiệm thu đều là thời điểm:

  • Nhà thầu rút khỏi Dự án;
  • Sản lượng và khối lượng thi công là cuối cùng, không phát sinh thêm nữa;
  • Quyền sở hữu hạng mục công trình, công trình xây dựng được chuyển giao về lại cho Chủ Đầu tư;

Tuy nhiên hướng xác định này chỉ có thể áp dụng trong trường hợp có 01 (một) bên đã thực hiện việc chấm dứt Hợp đồng.

Bởi lẽ đề xuất tính thời điểm bảo hành từ ngày chấm dứt hợp đồng xuất phát từ bản chất của thời điểm theo quy định của luật, khi Chủ đầu tư nghiệm thu hoàn thành công trình. Và do đó, trong trường hợp Hợp đồng chưa bị chấm dứt thì rất khó để có thể xác định được 1 thời điểm nào khác mang bản chất tương tự như khi công trình được nghiệm thu hoàn thành, điển hình như việc chuyển giao quyền sở hữu công trình cho Chủ Đầu tư. Và rõ ràng rằng trong tình huống này, bên phải đối mặt với rủi ro cao hơn sẽ là Nhà thầu.

Kết luận

Có thể thấy, không chỉ đối với vấn đề tiền bảo hành mà nhìn chung các tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng đều vô cùng phức tạp với những yếu tố tính kỹ thuật đặc trưng của lĩnh vực này. Do đó, việc thiếu vắng đi các quy định chi tiết, rõ ràng sẽ khiến cho các bên trong Hợp đồng khó lòng đạt được tiếng nói chung một khi phát sinh tranh chấp.

nhằm tránh rủi ro dẫn đến tranh chấp về thoả thuận trọng tài dẫn đến kéo dài quá trình giải quyết tranh chấp sau này.

Phụ trách

Kiều Nữ Mỹ Hảo | Cộng sự

Điện thoại: (84) 28 6276 9900

Email: hao.kieu@cnccounsel.com

Nguyễn Lê Anh Thư | TrợLuật sư

Điện thoại: (84) 932 705 676

Email: thu.nguyen@cnccounsel.com

[1] Khoản 7 Điều 28 Nghị định 06/2021.

[2] Khoản 5 Điều 28 Nghị định 06/2021.

Content Protection by DMCA.com

Để lại một bình luận

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.